Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lửa tắt bình khô rượu (tưởng nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương)

14/04/202119:55(Xem: 12364)
Lửa tắt bình khô rượu (tưởng nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương)

vu hoang chuong-1
Lửa tắt bình khô rượu

(tưởng nhớ thi sĩ Vũ Hoàng Chương)

 

Ai đã từng làm bạn với Lưu Linh, một anh chàng uống rượu như hũ chìm trong các điển tích thơ văn? Ai đã từng làm “thơ say“ truyền cảm xúc cho những người chưa từng biết uống rượu ? Kể ra chắc nhiều vô số! Nhưng siêu đẳng vẫn là thi sĩ họ Vũ tên gọi Hoàng Chương với bài thơ say bất hủ, chỉ cần đọc lên hai câu là đã thấy tinh tú quay cuồng rồi:

Em ơi, lửa tắt bình khô rượu. 

Đời vắng em rồi... say với ai?

 

Không biết Vũ tiên sinh uống loại rượu gì? Được chưng cất cầu kỳ và phức tạp cỡ nào, mà làm thơ hay thế! Nhưng hỏi là hỏi thế thôi! Tôi biết chắc, thi sĩ chỉ mượn rượu để say trong men tình!

Vậy bài thơ "Đời vắng em rồi" không chỉ được xếp loại vào hàng thơ say mà phải gắn thêm hai chữ "say tình" mới đúng điệu.

 

Nhân vật nữ trong hai câu thơ này ẩn hiện như sương khói, xuất hiện ngay đầu câu với tiếng gọi "Em ơi," thật tha thiết và biến mất ở cuối câu với hai chữ "với ai?" đầy nghi hoặc!!?

Bóng hồng trong thơ là ai mà có ma lực làm Vũ tiên sinh quẳng hết các bình rượu, không thèm say khi thiếu hồng nhan tri kỷ bên cạnh để say. 

Thơ như thế mới làm tôi nhức nhối con tim, mới làm tôi ngưỡng mộ vị thi sĩ đại tài được ví như một Ngôi Sao Bắc Đẩu lấp lánh trên nền trời văn học Việt Nam.

 

Thế nhưng, chẳng lẽ lại đổi thơ của cụ Nguyễn Du "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen", nhà thơ lớn này bị vùi dập cho đến chết vào năm 1976, chỉ một năm sau ngày Miền Nam bị Giải Phóng một cách oan uổng.

Các cụ vẫn thường bảo "Thuyền to thì sóng lớn", thi sĩ họ Vũ quá nổi tiếng ở miền Nam, nên phái đoàn thơ văn của miền Bắc trong chuyến "giao lưu" đầu tiên tại Sài Gòn sau 1975 đã chiếu cố đến tiên sinh. Họ đi chiêu dụ thêm vây cánh để làm thơ, viết văn ca ngợi một chủ nghĩa... không còn từ nào để nói nữa!!? 

Phái đoàn gồm nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, kể cả những kẻ hét ra lửa như Tố Hữu, với biệt danh "Nhà thơ máu và hoa":

Ôi Việt Nam, từ trong biển máu. 

Người vươn lên như một thiên thần. 

 

Và cũng nhờ tài làm thơ khóc Stalin, thi sĩ máu lửa của miền Bắc này đã leo đến chức Phó Thủ tướng và nằm trong Bộ Chính trị. Thế mà Vũ tiên sinh ngay thẳng của chúng ta đã dám phê bình văn học bài thơ ấy! Hậu quả tai hại như thế nào sẽ được nói rõ ở phần sau?

 

Nhân vật thứ hai trong phái đoàn giao lưu văn nghệ là người bạn cũ Huy Cận, tình nghĩa thơ văn chỉ đậm đà trong thời gian kháng chiến với ngậm ngùi. Một giai thoại đối đáp khá thú vị giữa hai nhà thơ. Huy Cận với tác phẩm nổi tiếng "Lửa Thiêng" đã hỏi Vũ Hoàng Chương tác giả của "Thơ Say" và "Mây" để  được câu trả lời:

-  Đã lâu lại gặp "Chàng Say".

           "Lửa Thiêng" xin đốt chờ "Mây" xuống trần.

-  "Mây" kia chẳng chịu xuống trần. 

          Lửa ơi theo khói lên gần với "Mây".

 

Nhưng khi ký kết hiệp định Genève năm 1954, lấy con sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 để chia đôi thì đường đời hai ngã giữa hai nhà thơ, từ tư tưởng chính trị đến thơ văn. Mãi đến năm 1975 họ mới gặp lại nhau tại Sài Gòn, do chính Huy Cận chủ động đi tìm Vũ Hoàng Chương.

 

Huy Cận dùng tình cảm bạn bè cũ tặng quà quý giá cho bạn vàng, một chai rượu quý, một lọ đầy thuốc phiện và một chân dung cuộn tròn của lãnh tụ, nhờ đề thơ. Thế là Vũ tiên sinh từ từ đã bị phe kia dồn vào chân tường, khi Huy Cận đến đòi thơ trên chân dung lãnh tụ thấy gói quà được trả lại vẫn còn nguyên không đụng đậy. Dĩ nhiên nhà thơ của chế độ, có một thời đã leo đến chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa, đã giận tím mặt và để bụng tìm cơ hội trả đũa cho việc không nể nang tình bạn một chút nào! 

 

 Thi bá họ Vũ đã làm gì nên tội mà "Bên thắng cuộc" đã gán ông vào tội phản động và bắt giam ngày 13 tháng 4 năm 1976, cùng xà lim với bác sĩ Phan Huy Quát (Thủ tướng của nội các cụ Phan Khắc Sửu)? Ít nhất cũng 3 tội, đó là làm thơ thời sự châm biếm chế độ, không nể nang tình bạn và dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. 

.   Bài thơ thời sự Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ tiên sinh trong "Mùa xuân đầu tiên" gồm 8 câu 7 chữ đã tuyên chiến với cả chế độ.

Ngoài ra theo tin hành lang, hai câu vè vang tiếng một thời được mọi người ưa chuộng, thuộc nằm lòng, cũng của Vũ Hoàng Chương:

Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý.

Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.

 

.   Về tội không nể nang tình bạn thì Huy Cận cũng đành chịu thôi! Làm sao có thể lung lạc được một người có khí phách, không a dua theo thời cuộc như Vũ Hoàng Chương. 

 

.   Dạy khôn cho kẻ thắng thế, đây mới là tội lớn đưa đến cái chết cho tiên sinh gầy gò ốm yếu chỉ biết làm thơ. Và cầm phấn đứng trên bục giảng của trường Chu Văn An với môn Việt văn. 


vu hoang chuong-2

 

Câu chuyện bắt đầu từ một đêm "Họp mặt văn nghệ" do ký giả nằm vùng Thanh Nghị tổ chức và tiếp đón vào tháng 4 năm 1976. Mục đích của cuộc họp mặt là đánh giá văn hóa hai miền rồi thống nhất về một mối (một sự hoang tưởng vô bờ bến!). 

Đề tài đưa ra là bình thơ của Tố Hữu, bài thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng. 

Thương mình thương một, thương Ông thương mười. 

 

Chuyện Tố Hữu thương ai nhiều ai ít cũng chẳng chết thằng Tây hay con mẹ Đầm nào cả. Nhưng hai câu sau đây đã làm Vũ tiên sinh lộn tiết:

Yêu biết mấy nghe con tập nói. 

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.

 

Khi bị ép buộc lên phát biểu, thi sĩ họ Vũ đã từ tốn chê thơ Tố Hữu một cách thẳng thắn và dạy cho họ cách làm thơ. Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, yêu cụ Stalin thay cho mình, đó là kỹ thuật của thi ca? Phải hỏi có cùng tâm cảnh không? Chắc không? 

 

Việc bẻ cong ngòi bút, đi thương vay khóc mướn nịnh bợ Stalin, một đồ tể quốc tế, đã sát hại từ 15 đến 20 triệu người dân vô tội trong các trại tập trung ở Sibérie, làm sao bắt Vũ tiên sinh hùa theo ca tụng được. 

 

Việc làm đồng chí Tố Hữu mất mặt trước đám đông, Vũ tiên sinh phải trả một giá khá đắt. Ngay ngày hôm sau đã được công an mời lên làm việc và tống ngay vào xà lim khám lớn Chí Hòa. Chỉ một thời gian ngắn, thân xác ốm yếu của Vũ tiên sinh đã rệu rã, sắp trở về với cát bụi. Họ mới áp dụng chính sách khoan hồng trả về cho vợ con lo hậu sự. Tiên sinh qua đời ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Khánh Hội, trong ngôi nhà của thi sĩ Đinh Hùng, em vợ của ông thương tình cho ở đậu. 

 

Hôm nay ngày 13 tháng 4 năm 2021, đúng 45 năm ngày tập đoàn thơ đỏ đã tống giam Ông vào khám lớn rồi bức tử. Xin thành kính đốt nén hương lòng bằng "Lửa Từ Bi" của Vũ Hoàng Chương:

 

Lửa, lửa cháy ngất tòa sen. 

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc.

Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi.

Chỗ người ngồi: một thiên thu tuyệt tác. 

Trong vô hình sáng chói nét từ bi.

...

Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát. 

Dội hào quang xuống chốn A Tỳ. 

Ôi! Ngọn lửa huyền vi...
(xem trọn bài thơ này)

 

Hoa Lan Thiện Giới.

13 tháng 4 năm 2021.

 

 

Nguồn tài liệu:

 

https://www.chuvananbc.com/tai-sao-vu-hoang-chuong-bi-bat

 

. http://vi.wikipedia.org/wiki/Vu_Hoang_Chuong

 

. http://www.vccottawa.com/haivisaobang

 

 

***

facebook-1


***
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2021(Xem: 4089)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
08/11/2021(Xem: 11585)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 13508)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6966)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4769)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2573)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3794)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2685)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6714)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 9169)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]