Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyến Vượt Biên Của Tôi

14/04/202118:52(Xem: 10873)
Chuyến Vượt Biên Của Tôi
Tran_Thi_Nhat_Hung_2
Chuyến Vượt Biên Của Tôi
Trần Thị Nhật Hưng


   Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết cội nguồn của mình. Đó là lý do, nhân 30/4 tôi quay về 45 năm trước tại sao tôi và thân nhân gia đình các bạn có mặt tại hải ngoại.

                                       

  
Cũng như bao người miền Nam sau 30.4.1975, trước chính sách khắc nghiệt và quái dị không thể tưởng tượng nổi trên cõi đời này, chỉ mua nửa ký thịt mà cả làng cả xóm xếp hàng từ quày hàng thịt kéo ra tới cổng chợ như rồng rắn lên mây nếu không muốn nói như ăn mày trông không ra thể thống gì, có khi đợi 4 tiếng đồng hồ mới mua được nửa ký thịt nếu không biết tranh, đi thật sớm xếp hàng..v.v.., chưa kể nối đuôi mua 9 ký gạo, vài ký khoai (sùng cũng phải nhận) hay một con cá, vài mét vải..v.v.., một trong những điều vô vàn quái đản đi ngược lại nếp sống tự do và ý muốn của toàn dân mà chế độ mới do đảng cộng sản Việt Nam áp đặt cho mọi người. Còn trăm thứ trăm điều khác nữa "khổ lắm, biết rồi, nói mãi“ nên tôi không ghi thêm ở đây.

   
Không ai chịu nổi cộng sản kể cả người cộng sản nên chính họ sau này cũng đã thay đổi để tồn tại và sư tổ của họ từ Nga cũng phải vứt chủ nghĩa đó vào sọt rác.

 
Trở lại chuyện Việt Nam sau 75, dân tình khốn đốn  chưa kể thành phần bị gán tội "ngụy quân, ngụy quyền“ như tôi bị đì xuống tận đất đen thì càng khó sống hơn với họ, do vậy, đàng nào cũng chết, thà tìm cách sống trong cõi chết, chết vinh hơn sống nhục, nên tôi lúc đó dù chồng còn ngồi tù cải tạo, mới hơn hai mươi tuổi đầu, tôi đã liều chết vượt biên chọn cho mình một cuộc sống xứng đáng hơn, cứu mình và cứu gia đình.

   
Chuyến đi của tôi do vợ của một đại tá tình báo Việt Nam Cộng Hòa thân quen với gia đình tổ chức. Một phu nhân liễu yếu tay mềm từng sống trong nhung lụa “kín cổng cao tường" sau 1975 trước sóng gió cuộc đời, bà bỗng trở nên mạnh mẽ xuất sắc một cách phi thường tôi không ngờ nổi. Chồng đi tù, ở nhà bà gánh 5 con, ngoài sinh kế lo cho gia đình, bà còn đứng ra tổ chức cho đám con và một số người thân quen vượt biên trong đó có tôi, bà ở lại thủy chung chờ chồng và lo thăm nuôi tiếp tế cho ông.

  
Hôm ra đi, bà sắp xếp cho tôi theo một cặp vợ chồng trẻ cùng chuyến. Từ Sài Gòn xuống Bạc Liêu trời đã nhá nhem tối, bà đón chúng tôi và đưa về một túp lều tranh vách đất nhà người dân gần bến xe mà bà móc nối trước đó để giấu chúng tôi. Nhưng khoảng gần nửa đêm, bà ngoắc mình tôi ra, theo bà trải tấm chiếu và giăng màn ngay vỉa hè bến xe ngủ tạm. Giấc ngủ hoàn toàn không đến, tôi với bao nỗi ngổn ngang không sao chớp mắt được, rồi nửa đêm về sáng, bà lay tôi dậy và đưa tôi xuống ghe, bến cũng gần ngay đấy. Bà xiết tay tôi thì thầm vài câu chúc thượng lộ bình an, tôi cũng cám ơn tạm biệt bà rồi lặng lẽ xuống ghe.

  
Trên ghe, ngọn đèn bão sáng lờ mờ soi rõ cho tôi thấy đã có sẵn dăm, bảy người ngồi trong đó. Ai nấy im thin thít, tuy không ai nói ra cũng cùng biết toàn là người vượt biên đồng cảnh ngộ.

  
Mái chèo của người lái đò vẫn nhẹ nhàng khua nước, trong đêm vắng tiếng róc rách nghe rõ mồn một, ghe đưa chúng tôi dọc giòng sông hướng ra biển. Độ chừng hơn nửa tiếng sau, chúng tôi được đưa sang tàu lớn, loại tàu đánh cá chỉ chứa đúng 39 người. Tất cả ngồi bệt dựa vào hai bên thành tàu, hai chân duỗi thẳng xếp lớp với đôi chân người đối diện như xếp cá mòi.

   
Có lẽ, tôi là người lên tàu cuối cùng, vừa ổn định chỗ ngồi ngay cuối tàu, tôi đã nghe tiếng nổ máy phóng đi. Ngang qua biên phòng, có tiếng từ bên trong gọi vói ra: "Tàu vượt biên phải không? Đứng lại!“ tiếp đó có vài tiếng súng nổ. Tàu vẫn chạy...và thoát luôn. Có lẽ do chuyến tàu nhỏ không đáng nên biên phòng không đuổi theo chăng?!

  
Con tàu ra khơi, được một ngày êm ả, biển êm và trời trong xanh, thế nhưng tôi và nhiều phụ nữ khác cũng say sóng ói tới mật vàng. Chẳng ai ăn gì, không thấy đói mà thực sự cũng không ai phát ngoài ấm nước nhỏ bằng nhôm cứ chuyền từ người này đến người kia. Uống không có ly, chỉ há miệng rót vào. Tôi chưa kịp đủ được một hớp nhỏ, là người khác đã giựt đi rồi. 

Con tàu vẫn lặng lẽ trôi, như chiếc lá tre lênh đênh giữa biển trời mênh mông không còn thấy đâu là bờ. Một ngày sau, thấp thoáng xa xa có một chiếc tàu đi lại. Mọi người xôn xao, nhốn nháo: Tàu Nga, tàu Thái, tàu biên phòng Việt Nam hay Cap Anamur cứu người vượt biển? Bao câu hỏi đặt ra, không có câu trả lời, cuối cùng khi tàu lạ đến nơi, mới rõ ra tàu cướp. Khoảng năm, bảy tên nhảy lên tàu chúng tôi, mặt mày tên nào tên nấy bặm trợn, rất hung dữ. Bọn chúng chỉ mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi, để lộ tấm thân đen đúa trần trùng trục. Đứa cầm dao, đứa cầm búa hùng hổ đập thình thịch trên thành tàu khủng bố tinh thần chúng tôi, miệng chúng ư ử gầm gừ như cọp rống. Chúng nói tiếng gì không ai hiểu. Mọi người không ai bảo ai, đồng lòng moi tiền bạc vòng vàng đưa cho chúng. Tôi ra đi chẳng mang gì, không có đồng đô la nào, có chút tiền Việt Nam, khi xuống ghe, tôi đã đưa hết cho bà chủ tàu nhờ cầm về cho gia đình, chỉ mỗi chiếc nhẫn cưới vàng tây mỏng mảnh chả đáng bao nhiêu tiền đang đeo trong tay, tôi rút liền đưa cho chúng, còn sợi dây chuyền mẹ tặng khi còn bé, tôi giấu luồn trong dây thun quần, khâu tròn dây thun lại, nghĩ chúng không thấy được nên tôi không đưa ra. Chúng còn lục tung đồ đạc của mọi người thích gì lấy nấy, vớ được tập bản thảo hai truyện dài tôi viết trong hai tập vở, tưởng giấu tiền trong đó, chúng lật từng trang tìm kiếm, không thấy gì thì ném trở lại, may không ném xuống biển. Rồi trước khi rút lui, chúng còn ném cho một canh nước. Cũng còn nhân đạo!

  
Con tàu lại tiếp tục trôi. Qua ngày hôm sau, dường như tàu lọt vào trung tâm đánh cá, thì không những chỉ một lần gặp hải tặc mà liên tục đến năm, sáu lần. Hầu hết như đám cướp lần rồi, xuống gầm gừ thị uy, vớ được tí tiền, vàng liền rút lui. Và trước khi đi, chúng vẫn  cho lại một canh nước.

  
Đã vài ngày, chúng tôi chẳng có gì ăn, vẫn chỉ một ấm nước thay phiên chuyền nhau như vẫn chuyền, tuy nhiên, trong số lần cướp đó, chỉ một lần đặc biệt nhớ đời, chúng lùa hết tất cả chúng tôi lên con tàu sắt khá lớn của chúng, từng người lên cửa tàu đều giơ hai tay lên đầu, chúng chỉa dao ngay bụng để chúng lục soát. Trong tình hình như thế, không hiểu sao, tôi không mảy may một chút sợ hãi, cảm giác tôi sơ cứng hay do tôi đã quen đối đầu trước những gian khổ, chán chường nên không tha thiết gì kể cả mạng sống. Cho sống thì sống, bắt chết thì chết, tiếc gì của cải. Tôi chỉ ngay xuống bụng đang giấu sợi dây chuyền cho chúng lấy đi. Chúng sờ soạn bụng tôi, thấy cờm cợm ở trước bụng rồi lôi ra một gói nhỏ, mở ra chỉ là vài lát sâm Cao Ly do trước khi đi, cụ bố chồng gói cho tôi phòng khi có đói, khát mà cầm cự, tôi đặt ở túi quần tôi vẫn thường may để cất đồ lặt vặt. Nghĩ tôi chỉ chúng mấy lát sâm, chúng đâu cần những thứ đó, nên đẩy tôi qua bên vào một phòng có bàn ghế hẳn hòi và ngồi xuống như bao người trước đó, rồi chúng tiếp tục lục soát người khác. Thế là tôi còn nguyên vẹn sợi dây chuyền. Bọn cướp này có lẽ không là cướp chuyên nghiệp mà là cướp thời vụ, nhân biết bà con vượt biên mang theo tài sản nên động lòng tham thôi, họ vẫn còn rất nhân đạo tử tế, không nghĩ hiếp dâm bất cứ cô nào, rồi trước khi cho chúng tôi xuống tàu, họ còn đãi cho mỗi người một đĩa cơm trắng nóng hổi, một con cá bạc má chiên, một miếng trứng chiên, thêm lát thơm ướp lạnh và ly nước suối.  Bị đói mấy ngày nên ai nấy ăn rất ngon miệng nhưng khi xuống tàu, chỉ non nửa ngày sau, bầu trời đang trong xanh quang đãng, bỗng nơi chân trời xa hiện lên từng mảng đen xì, trời dần dần chuyển màu, tối xầm lại, mây đen vần vũ, gió từng cơn thổi mạnh, cuối cùng cơn giông ập tới.

   
Cùng với biển chao đảo, sóng nhấp nhô nhào lộn, nhồi chúng tôi trên tàu như máy nhồi bột bánh mì. Bao nhiêu thức ăn trong bụng tôi đều ộc ra, ộc cả mật xanh, mật vàng và ộc cả con giun đủa dài bằng nửa chiếc đủa tôi “nuôi„ trong bụng lúc nào không biết. Kéo ra, nó còn ngoe ngoảy bò. Con tàu chiến đấu quyết liệt với tử thần. Đắm tàu, vỡ tàu là lúc này đây. Trời, dễ chết quá. Người lái tàu khéo léo đưa thẳng mũi tàu thẳng góc con sóng, nhưng đôi khi con tàu chưa kịp đỡ con sóng này thì sóng khác ập lại, tàu bị nghiêng tôi còn nhìn thấy mặt biển đen nghịt, đen như chiếc quần đen, chỉ tíc tắc là lật úp. Tôi niệm Phật liên tục, niệm Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn và nguyện nếu thoát chết, khi đến nơi bình yên, con sẽ thờ Ngài như một niềm tri ân. Tuy vậy, tôi vẫn đưa mắt xem trên tàu có tấm ván nào không, nếu tàu ụp xuống, tôi sẽ chụp tấm ván đó cầu may, nhưng chả thấy tấm ván nào. Gió vẫn thổi, vẫn từng cơn rít lên ghê rợn. Biển động mạnh, từng con sóng lớn, nhỏ vẫn thi nhau đập vào thành tàu ầm ầm, nước văng tung tóe và tràn vào cả trong tàu, mọi người thi nhau múc nước hắt ra. Có lúc sóng đập mạnh làm lòi cả cây đinh dài 10 cm ra ngoài. Mọi người hét lên, thông báo cho chủ tàu xuống đóng lại nếu không con tàu sẽ vỡ đôi mất. Ngồi dưới cuối tàu, đầu tôi lấp ló nửa trong nửa ngoài mái tàu, nên tôi ướt như chuột lột. Nhưng rồi, cơn giông gầm gừ mãi cũng yên, trả lại bầu trời trong xanh quang đãng chỉ được hai ngày, ai nấy chưa kịp thở phào nhẹ nhõm, giông lại vần chúng tôi như thế thêm một lần nữa.

    
Ngày thứ năm, để trước khi cập đến đảo Pulau Bidong, Malaysia, chúng tôi lại gặp tàu cướp (chắc cướp Malaysia). Một chiếc tàu sắt lớn so với tàu chúng tôi như voi so với chuột. Chúng áp lại, thả lưới, cầu thang dây đưa hết chúng tôi lên tàu chúng. Nhìn những tên cướp này mặt mày vô cùng sạch sẽ, sáng sủa...đẹp trai, quần áo sơ mi tươm tất, ăn nói lịch sự đàng hoàng, không ai có thể tưởng hay nghi hoặc chúng là tàu cướp mà ai nấy còn an tâm nghĩ là tàu cứu, ngày mai chúng sẽ đưa chúng tôi vào bờ như chúng hứa khi có vài người thạo tiếng Anh hỏi chuyện với chúng.

  
Tàu chúng khá lớn, rộng và dài có rất nhiều cabin. Có một khoảnh sân rộng như sân thượng, chúng đặt một ụ lớn lưới đánh cá. Trong khi mọi người trên tàu đi loanh quanh hay đang dựa thành lan can ngắm biển, yên chí ngày mai sẽ vào bờ, tôi mệt nhoài nằm soải người dựa vào ụ lưới cá nghỉ ngơi, chợt tôi thấy vài tên cướp xuống tàu nhỏ của chúng tôi đang lạo xạo lục đồ. A ha, hành động này không thể tin là tác phong của người tử tế, đàng hoàng, do vậy khi chiều đó, chúng đưa khăn tắm, sà phòng thơm cho mọi người, nhất là ưu ái cho quí cô trong đó có tôi và hướng dẫn vô phòng tắm tắm, thì tôi lại nghĩ khác. Chỉ còn ngày mai đến nơi, thân thể mình hôi hám tổng hợp từ đủ mùi vị nước biển, nước tiểu (trên tàu chả thấy nhà vệ sinh đâu, nếu có cũng chả ai bước nổi), nước ói mửa, và cả mùi tanh tưởi do nằm trên lưới cá, may không có mùi phân vì bụng ai nấy bao ngày đều trống rỗng, đã chịu được nhiều ngày thì chịu thêm ngày nữa, mai vào bờ tắm cũng không muộn.

  
Đúng như suy nghĩ của tôi, khi trời chạng vạng bắt đầu nhá nhem tối, chúng lùa hết đàn ông con trai xuống lại tàu nhỏ của chúng tôi và giữ đàn bà con gái lại trên tàu chúng. Phụ nữ chúng tôi biết chuyện chẳng lành, xúm nhau chui vào lưới cá ôm cứng nhau để tự bảo vệ nhau. Không cách nào lôi chúng tôi từng người ra được, chúng giựt tung tấm lưới và hùng hổ bắt chúng tôi đứng dậy lùa hết vào một căn phòng lớn, nằm xếp lớp trên sàn tàu như xếp cá mòi. Ai nấy đều sợ hãi nằm úp mặt và vẫn ôm cứng nhau. Mấy cô gái hồi chiều ngây thơ tắm rửa sạch sẽ, còn đem cả sơn móng tay ra chuốt làm như hôm sau vào thành bát phố bị chúng lôi từng người đi mất, đưa về phòng riêng của chúng. Riêng tôi, chúng đâu ngoại lệ, trong phòng chỉ còn tơ hơ vài người như tôi, tôi đang ôm cứng con bé 14 tuổi, dúi mặt vào lưng nó, kiểu như mẹ ôm con. Con bé này nghĩ cũng buồn cười, trước khi vượt biên, mẹ nó đã cắt tóc húi cua giả trai cho nó, còn mặc chiếc áo sơ mi màu rêu bộ đội, trông nó in hệt con trai, khi bọn cướp lùa đàn ông con trai xuống tàu, nó không chịu theo, cứ ở lại vì nó đích thị là...thị mẹt!

  
Một tên cướp kéo tôi dậy. Không cưỡng lại sức mạnh của chúng, tôi ngồi bật dậy, không biết nói sao, phản ứng tự nhiên tôi lôi ra vài lát sâm làm như bùa hộ mạng mở ra cho chúng thấy rồi đưa tay đập nhẹ lên trán như muốn nói tôi đang bịnh. Thế rồi chúng bỏ đi, nhưng không phải vì lý do tôi vừa nêu, mà rõ ràng do thân thể tôi bốc mùi...chua quá! Quần áo tôi còn ướt lèm nhèm, tóc tai nhớp nháp dính từng chùm, tổng hợp nhiều mùi vị ủ lâu ngày đã lên...men, chua hơn giấm! Ai đến cũng khịt mũi, bịt mũi chạy có cờ. Con bé 14 tuổi cũng thoát nạn vì nghĩ nó là con trai.


tran thi nhat hung 4tran thi nhat hung 3tran thi nhat hung 2

tran thi nhat hung 1
Vài hình ảnh của tác giả
lúc còn ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, Malaysia
vào năm 1981

  
Con bé này có một nhân duyên rất hy hữu với tôi. Nó cũng đi một mình. Cha mẹ gởi gắm nó cho hai chị em con người bạn thân. Lên bờ, thay vì quan tâm chăm sóc nó, thì chính hai chị em hà hiếp bóc lột nó tới bến. Chỉ xách giúp nó một thùng nước theo tiêu chuẩn, mà bù lại đì nó thành con sen ngày ba bữa nấu ăn rửa chén không những cho hai chị em mà còn cả đám bạn gái cùng tàu 5 đứa hằng ngày ngồi hóng gió biển trò chuyện vui cười để nó lủi thủi một mình nấu ăn luôn gặp tôi nơi xó bếp. Mà nấu tại đảo rất vất vả trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, bếp núc, củi lửa rất khó khăn. Nó đi Áo phải học tiếng Đức cùng ngôn ngữ tôi học vì tôi đi Thụy Sĩ. Tôi luôn gặp nó tại nhà bếp ngày ba bận (tôi nấu riêng không chung chạ với ai) nên tôi mới rõ chuyện. Nó vốn hiền, kham nhẫn và chịu đựng, không kêu ca gì nếu tôi không thắc mắc hỏi nó. Thậm chí, khi đêm về, hai chị em, một cái chăn đắp chung, một cái chăn lấy làm gối, trong khi con bé nằm tơ hơ lạnh lẽo khi gió biển thổi vào. Không chịu được, tôi ra tay...nghĩa hiệp cứu nó, nghĩa là hằng ngày, tôi xách giúp nó một thùng nước, nấu cơm cho nó ăn chung, đắp chung chăn với nó, hằng ngày rủ nó đi học, nó được giải phóng hoàn toàn khỏi ách nô lệ của đám quỉ quái kia! Rồi tôi và nó định cư mỗi người mỗi nước. Mãi sau này khi liên lạc về gia đình tại Việt Nam, tình cờ mới hay nó là cháu nội của cụ “Cấm ông Nghè„ một thắng cảnh, địa danh của núi Cấm tại Quảng Ngãi mà ông nội nó đậu tiến sĩ thời nhà Nguyễn được sở hữu nên mới gọi là Cấm ông Nghè, và ông nội cũng như cha mẹ nó không ai xa lạ chính là bạn thân với đấng lang quân tôi.


tran thi nhat hung 5
Nhóm bảo trợ tại Thụy Sĩ năm 1982

tran thi nhat hung 6
Tác giả định cư tại Thụy Sĩ năm 1982



tran thi nhat hung 7
Thuỵ Sĩ năm 1982

tran thi nhat hung 8
Lang quân tác giả đến Thụy Sĩ năm 1987



  

Trở lại vụ tàu cướp. Tôi nằm ôm cứng con bé không biết bao lâu, không rõ thời gian trời trăng ra sao cho đến lúc bọn cướp lay chân gọi tất cả mọi người dậy và thả hết về tàu. Ánh mặt trời lung linh qua khung cửa sổ, tôi mới biết là trời đã sáng.

 
Con tàu tiếp tục cuộc hành trình, lặng lẽ lướt trên mặt biển êm dưới nắng ban mai lấp lánh, trông biển hôm đó hiền, dịu dàng như cô thiếu nữ. Bầu trời quang đãng trong xanh, mây trắng từng cụm vẫn nhẹ nhàng bay không biết về đâu. Dù đã mấy ngày chẳng ai có gì vào bụng, vẫn cũng chỉ vài ngụm nước như bao lần, thế mà đến ngày thứ 5, một thằng bé độ 6 tuổi con ai không biết đứng dậy thả một quả...bom xuống sàn tàu (cũng có thể mẹ nó lén lút cho nó ăn hồi nào không ai biết). Mùi hôi thối xông lên nồng nặc không ai chịu nổi cũng phải chịu. Tôi may mắn ngồi dưới cuối tàu, đứng dậy bước ra ngoài dựa vào thành tàu vừa ngắm biển vừa hít chút không khí trong lành của biển, tránh được mùi...nước hoa do thằng bé sản xuất. Những đàn cá chuồn đuổi nhau, phóng bay trên mặt nước nhào lộn trông thật đẹp và vui mắt. Dưới biển, bơi theo tàu là những đàn cá...mập ( tôi đoán thế), hay cá thu (?) lượn lờ đùa giỡn với nhau rất là an bình. Rồi trời chạng vạng, thoáng trong ánh sáng lờ mờ một vài cánh chim hải âu bay lượn như gọi đàn về tổ, lấp ló xa xa ẩn hiện mập mờ một hòn đảo in nơi chân trời, mọi người reo lên biết là sắp vào đất liền. Tôi cũng thở phào nhẹ nhõm biết mình được sống và hân hoan khi nghĩ đến gia đình nay mai cũng sẽ rất vui khi biết tàu chúng tôi đã đến bến bờ bình yên.

  
Anh tài công định vị, khéo lái đưa tàu vào ngay cầu Jetty của đảo Pulau Biddong. Trời đã tối hẳn. Chúng tôi từng người được đỡ lên bờ. Do hơn 5 ngày không có gì vào bụng, tôi ốm nhom, mặt mày hốc hác, chiếc quần lỏng le, tôi vừa đi vừa túm lưng quần nếu không sẽ bị tuột. Đã lên bờ mà người cứ như say sóng, bước chân lảo đảo như đang ngồi dưới tàu (tình trạng này phải mất vài ngày mới hết). Mọi người trên đảo cũng vui mừng ùa đến làm dàn chào đón chúng tôi. Họ gọi nhau ơi ới khi nhận ra người thân. Còn tôi thì lầm lũi bước không mong gặp được ai quen. Thế mà cũng có người gọi tên tôi, tôi nhìn kỹ nhận ra là Lâm, bạn học cùng lớp với em gái tôi, hồi ở Việt Nam, Lâm hay đến nhà chơi nên biết nhau. Trời, nơi xứ lạ, gặp được Lâm như gặp được vàng. Tôi mừng khôn xiết. Lâm cũng ân cần theo tôi đến chỗ tập trung, đợi chúng tôi được Cao ủy cho mỗi người một chén mì ăn liền nóng hổi, ấm bụng, ngon hơn lúc nào hết, mọi người xin chén thứ hai, nhưng không ai cho cả, họ nói chúng tôi đói lâu ngày, ăn nhiều sẽ bội thực.

   
Chúng tôi ngồi bệt trên bờ, trước văn phòng Cao ủy để nhân viên lập danh sách, số tàu, kê khai những ai bị hiếp dâm để Cao ủy có những biện pháp ngừa dịch hay ngừa thai sao đó và sắp xếp cho chúng tôi ngủ tạm tại văn phòng đợi sáng mai tính tiếp. Đa số, nằm la liệt dưới sàn, riêng tôi được Lâm ngoắc ra, đưa về cái chòi của Lâm cũng là...tổ uyên ương Lâm đang sống chung với vị hôn thê. Mô Phật, cái chòi làm bằng cây xiêu vẹo, chắp vá từ những tấm bạt ni lon, bên dưới có người ở, còn “giang sơn„ của Lâm là trên gác cây, chiếc cầu thang nhỏ cũng bằng cây, tuy chỉ vài bậc thang nhưng đi không khéo là lộn cổ rơi xuống. Tôi thấy bất tiện nên từ chối, rút về văn phòng tập trung với những người cùng tàu đợi sáng mai Cao ủy sắp xếp chỗ ở cho tôi. Nhưng trước khi đi, tôi hỏi Lâm buồng tắm ở đâu cho tôi tắm nhờ, Lâm lắc đầu, điều kiện ở đảo không thuận lợi mọi sinh hoạt, nước ở đảo khan hiếm nên đưa tôi ra biển. Rồi trong khi Lâm đứng chờ trên bờ, tôi vẫn mặc bộ quần áo cũ xuống biển, nước biển đen nghịt trông rất ma quái, tôi một mình tắm nên sợ hãi chỉ tắm qua loa rồi lên bờ, Lâm cho tôi một thau nước ngọt nhỏ dội lại và cho mượn bộ quần áo của bạn gái Lâm mặc tạm.

   
Những ngày ở đảo, cũng nhờ có Lâm hướng dẫn mọi việc, tôi cũng đỡ bỡ ngỡ, buồn tủi trong bước đầu lưu lạc xứ người, xa vòng tay che chở của người thân, gia đình, quê hương và từ đây tôi biết phải một mình đương đầu đối phó với mọi gian lao, khổ cực trong cuộc sống và cạm bẫy của cuộc đời. Tuy vậy, tôi vẫn vui, vì nhờ vượt biên, tôi tìm thấy tự do và sống đời mình muốn sống.

   Tôi xin kết thúc bài viết tại đây. Ghi lại chuyến vượt biên của tôi chỉ là một phần nhỏ như bao chuyến vượt biên khác đóng góp vào trang sử nước nhà, giai đoạn đau thương của dân tộc Việt Nam với ước mong mai sau, thế hệ trẻ hiểu phần nào về chủ nghĩa cộng sản để tránh vết xe lăn đổ nát hầu mong đưa đất nước tươi sáng, hạnh phúc trọn vẹn đúng nghĩa hơn.

Trần Thị Nhật Hưng

 


***

facebook-1


***
 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7758)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3603)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3562)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11659)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4038)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3523)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10948)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6889)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13252)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4409)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]