Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Tiểu Kinh Khu Rừng Sừng Bò

19/05/202009:03(Xem: 9362)
31. Tiểu Kinh Khu Rừng Sừng Bò

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


31. Tiểu Kinh RỪNG SỪNG BÒ

(Cùlagosinga sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ, Thế Tôn Giác Giả

          Trú tại Na-Đi-Ká(1) làng xa

              Gin-Chá-Ká-Vá-Sá-Tha  (2)

       Lúc ấy tại Gô-Sinh-Ga (3) nơi này

         ‘Rừng Sừng Bò’, tên đây thường gọi

          Có nhiều cây thuộc loại Sa-La        

              Tôn-giả A-Nú-Rút-Tha  (4),

       Nan-Đi-Dá, Kim-Bi-La (5) ba vì

          Cùng trú ngụ, hành trì thiền định

          Tại khu rừng Gô-Sính-Ga này.

 

              Vào một buổi chiều trong ngày

       Thế Tôn xuất định, đến ngay khu rừng.

          Người giữ vườn bỗng dưng nhìn thấy

          Đức Thế Tôn đi lại từ xa,

    _________________________________

   (1), (2) : Địa phương tên Nadika & Ginjakavasatha .

  (3) : Khu rừng Gosinga , còn có tên Rừng Sừng Bò .

(4) :Anuruddha  (còn có tên A-Nậu-Lâu-Đà , A-Nậu-Đà-La  hay

       A-Na-Luật ), một trong 7 vị vương-tử giòng Thích Ca xuất gia

       theo Phật khi Ngài đã thành đạo và trở về Kapilavatthu .

       Ngài có tật hay ngủ gật khi nghe Phật thuyết pháp,bị Phật quở

      trách, nên ngài phát nguyện không ngủ cho tới khi nào đắc quả

      Do sự cố gắng quá sức, nên hai  mắt ngài bị mù .   Sau đó ngài

đắc quả A-La-Hán vàđược liệt vào Thập Đại Đệ Tử của Phật , 

      bậc Thiên Nhãn Đệ Nhất .

(5) : Hai vị Tôn-giả Thánh Tăng Nandiya  và  Kimbila .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –462  

 

              Thưa rằng : “ Xin hãy dừng qua !

       Sa-môn không thể vào ra nơi này

          Có ba vị hiện nay thiền tọa

          Rất ái luyến tự ngã như vầy

              Chớ phiền nhiễu các vịđây !”.

 

       Nghe tiếng người giữ vườn này cản ngăn

          Vì không biết kim thân Phật Bảo,

          Nên Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà

             (Tức ngài A-Nú-Rút-Tha)

       Liền bảo người giữ vườn là : “ Không sao !

          Chớ ngăn Thế Tôn vào thiền thất

          Ngài là bậc Thầy của chúng tôi ”.

 

              Ngài A-Na-Luật nói rồi 

       Bèn thân hành đến các nơi tức thì

          Nơi tu trì của Nan-Đi-Dá,

          Kim-Bi-Lá Tôn-giả hai ngài.

              Đến nơi, Tôn-giả nói ngay :

    “ Này chư Tôn-giả ! Lành thay ! Lúc này

          Hãy đến ngay bìa rừng phía trước

          Chúng ta được vinh dựđón mừng

              Đức Thế Tôn đã đến rừng

       Thăm chúng ta, việc chưa từng xảy ra ”.

 

          Rồi cả ba vị Tôn-giảấy 

          Lễ Thế Tôn, đón lấy thượng y

              Và bát của Ngài tức thì.

       Soạn chỗ để Chánh Biến Tri Ngài ngồi.

          Nước rửa chân đồng thời múc sẵn

          Đấng Chánh Đẳng ngồi xuống, rửa chân

              Rồi các Tôn-giảân cần

       Cung kính đảnh lễ pháp thân Phật Đà.

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –463  

 

Đoạn cả ba một bên ngồi xuống

          Lòng mong muốn Phật thuyết pháp ra.

              Đức Thế Tôn nhìn cả ba  

     (Nhưng tên A-Nú-Rút-Tha  Ngài dùng)

 

    – “ Này A-Nú-Rút-Tha ! Hãy tỏ

          Các ông có an lạc mọi thời ? 

              Có được an vui thảnh thơi ?

       Khất thực có được thuận thời, đủ không ?”

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chúng con đủ phước,

          Cả sáu thời đều được an lành

              Yên vui cùng sống tịnh thanh

       Khất thực thuận tiện, đủ phần thức ăn ”.

 

     – “ Này các ông ! Còn phần đời sống

          Có cùng sống hòa hợp thanh cao

              Như nước với sữa hòa nhau ?

       Có cùng hoan hỷ với nhau không nào ?

          Có tranh cãi, đối đầu gay gắt ?

          Có cặp mắt thiện cảm nhìn nhau ? ”.

 

         – “ Bạch đức Thế Tôn ! Trước sau

       Chúng con hoan hỷ, cùng nhau hợp hòa

          Tương nhượng, như nước hòa với sữa

          Không tranh cãi, nương tựa vào nhau

              Cặp mắt thiện cảm nhìn nhau

      (Giữ gìn phạm hạnh thanh cao hài hòa)

 

    – “ Này A-Nú-Rút-Tha ! Hãy kể

          Thế nào để hòa hợp sống chung ?

              Như nước với sữa hòa cùng ?

       Nhìn nhau cặp mắt bao dung cảm tình ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn cao minh từ mẫn !

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –464  

 

          Chúng con vẫn thường nghe nói ra :

              ‘Thật lợi ích thay cho ta !

       Thật khéo lợi ích cho ta vô cùng !

          Khi ta được sống chung hoan hỷ

          Với các vị đồng phạm hạnh này’.

              Bạch đức Thế Tôn ! Do vầy

       Với đồng phạm hạnh ởđây các vì,

          Con tức thì khởi từ thân nghiệp

          Từ khẩu nghiệp, ý nghiệp nói chung,

              Trước mặt và cả sau lưng

       Do vậy nên chúng con từng nghĩ qua :

         ‘Hãy từ bỏ tâm ta vị kỷ

          Sống thuận theo tâm ý thiện lành

              Của những Tôn-giả chung quanh’.

       Thế rồi con từ bỏ nhanh tâm mình.

          Sống giữ gìn thuận theo tâm ý

          Của những vị Tôn-giả quanh ta,

              Chúng con tuy thân khác xa

       Nhưng giống như thể đồng là một tâm ”.

 

          Tại tịnh lâm, hai vì Thiền-giả

          Nan-Đi-Dá và Kim-Bi-La

              Nảy giờ chưa dịp nói ra

       Đến đây, lần lượt thưa qua thật lòng

          Cả hai vị tán đồng tất cả

Điều A-Nu-Rút-Thá trình bày.                  

 

              Đức Phật tán dương : “ Lành thay !

       A-Nu-Rút-Thá ! Lành thay điều này !

          Nhưng hằng ngày các ông sống thật

          Nhiệt tâm, không phóng dật, tinh cần ? ”.

 

         – “ Chúng con thật sự tinh cần  

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –465  

 

       Sống không phóng dật, nhiệt tâm làm đầu ”.

 

    – “ Như thế nào sống không phóng dật ?      

          Sống chân thật, nhiệt tâm, tinh cần ? ”.

 

         – “ Bạch Phật ! Chính nhờ tinh thần   

       Tất cả công việc chia phân hằng ngày

          Ai khất thực đủ đầy, về trước

          Thì sắp đặt sẵn nước các phần :

              Nước để uống, nước rửa chân

       Chỗ ngồi thọ thực được phân công bằng

          Dành một bát thức ăn dư bỏ.

          Đồăn thừa nếu có nhu cầu

              Muốn ăn thì cứ dùng mau,

       Không ăn thì phải bỏ vào nơi đâu

          Không cỏ xanh hoặc vào giòng nước

          Mà trong nước không có côn trùng.

              Xếp dọn các chỗ ngồi chung

       Cất đi nước uống , nước cùng rửa chân

          Cất cái bát chứa phần tàn thực

          Rồi lập tức quét dọn nhàăn.

              Ai thấy ghè nước uống dần

       Nước nhà cầu, nước rửa chân hết rồi

          Thì người ấy tức thời lo liệu

          Chẳng cần biểu, lấy nước đổ đầy,

              Nếu không đủ sức bằng tay

       Liền ra hiệu người thứ hai giúp mình

          Cùng lo liệu tận tình việc ấy

          Nhưng dù vậy, không gây tiếng ồn.

              Thứ năm trong niềm kính tôn

Đàm luận đạo pháp ôn tồn cảđêm

          Chúng con sống êm đềm, tinh tấn

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –466  

 

          Không phóng dật, kham nhẫn, nhiệt tâm ”.

 

          – “ Lành thay ! Các ông âm thầm  

       Thực hành đời sống nhẫm kham, tinh cần

          Không phóng dật, nhiệt tâm như vậy

          Có chứng lấy được pháp thượng nhân

              Tri kiến thù thắng chánh chân

       Xứng đáng bậc Thánh lạc an hài hòa ? ”.            

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng là như thế

          Sao lại không có thể chứng vào 

              Các pháp thù thắng thanh cao ?

       Chúng con ly dục, pháp nào phải ly

          Tức là ly pháp gì bất thiện

          Cứ tinh tiến, chứng trú Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc đầu tiên

       Sanh do ly dục, có nguyên tứ, tầm.

 

          Bạch Thế Tôn ! Hành thâm như pháp

          Với chúng con là pháp thượng nhân

              Tri kiến thù thắng chánh chân

       Xứng đáng bậc Thánh lạc an hài hòa,

          Nhờ chúng con trải qua tinh tấn

          Không phóng dật, kham nhẫn, nhiệt tâm ”. 

 

        – “ Lành thay ! Một pháp cao thâm

       Nhưng các ông có vượt tầm trú an

          Có làm cho khinh an trúấy

          Và chứng lấy pháp khác thượng nhân

              Tri kiến thù thắng chánh chân

       Xứng đáng bậc Thánh lạc an hài hòa ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Trải qua thứ tự

          Chúng con đã diệt tứ, diệt tầm    

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –467  

 

              Chứng, trú Nhị Thiền âm thầm

       Trạng thái hỷ lạc, không tầm, tứ trên

Định sinh nên nhất tâm nội tĩnh

          Vượt qua chính sự an trú ngay

              Làm khinh an an trú này

       Chứng pháp thù thắng xứng tày Thánh nhân.

 

          Rồi dần dần chúng con quán kỹ

          Nên ly hỷ trú xảởđây

              Chánh niệm, tỉnh giác từng giây

       Thân cảm sự lạc thọ này vô biên

          Mà các bậc Thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ uyên nguyên

              Chứng và trú Đệ Tam Thiền

       Vượt qua an trú chứng liền chánh chân

          Pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng

          Xứng bậc Thánh, vắng lặng lạc an ”.

 

         – “ Lành thay ! Chứng đắc vẻ vang

       A-Nú-Rút-Thá ! Con đàng tiếp đây

          Các ông có vượt ngay an trú

          Làm khinh an sự trú an này ?

              Chứng pháp thượng nhân đủ đầy

       Tri kiến thù thắng, xứng tày Thánh nhân,

          Sống thoải mái, muôn phần an lạc ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Phải đạt cho xong,  

              Làm sao có thể là không ?

       Khi đã mong muốn, một lòng sắt son

          Rồi chúng con xả lạc, xả khổ

          Diệt hỷưu cảm thọ trước đây

              Chứng, trú Đệ Tứ Thiền ngay

       Xả niệm thanh tịnh, không rày khổ, vui.

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –468  

 

          Bạch Thế Tôn ! Không lùi gian khó

          Chúng con có vượt sự trú an

              Làm cho an trú khinh an

       Pháp thượng nhân khác hoàn toàn chứng tri :

 

      *  Rồi tức thì vượt mọi Sắc tưởng

          Diệt mọi chướng-ngại-tưởng trước sau

              Không tác ý dị tưởng nào

       Nghĩ : ‘Hư không đó thuộc vào vô biên’

          Chứng và trú Không Vô Biên Xứ.

      *  Vượt Không Vô Biên Xứđây liền

              Nghĩ rằng : ‘Thức là vô biên’

       Chứng và trú Thức Vô Biên Xứ miền.

      *  Thức Vô Biên Xứ mau vượt khỏi

          Suy nghĩ : ‘Không có mọi vật chi’

              Chứng và an trú tức thì

       Vô Sở Hữu Xứ, chẳng gìởđây.

      *  Vượt qua ngay Vô Sở Hữu Xứ

          Chứng và trú Phi Tưởng Phi Phi

              Là một Tưởng Xứ thường tri

      (Thuộc Vô-sắc-giới phạm vi cao vời)

          Nhưng không phải là nơi mong ước

          Chúng con vượt Phi Tưởng Phi Phi

              Rồi chứng và trú tức thì

       Diệt Thọ Tưởng Định uy nghi an từ

          Nhờ trí tuệđoạn trừ lậu-hoặc.

 

          Bạch Thế Tôn ! Quả thật rõ ràng   

              Chúng con vượt sự trú an,

       Làm sự an trú khinh an mọi phần,

          Chứng được pháp thượng nhân ưu đẳng

          Một tri kiến thù thắng đạt vào

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –469  

 

              Xứng đáng bậc Thánh thanh cao

       Và sống thoải mái, dạt dào lạc an.

 

          Bạch Thế Tôn ! Chúng con không thấy

          Lạc trú nào mà lại quý hơn

              Cao thượng hơn, thù thắng hơn

       Nên sự lạc trú này còn hơn xa ”.  

 *   **

    – “ Các A-Nú-Rút-Tha ! Sa-Thú ! (1)

          Thật hoan hỷ ! Sa-Thú ! Lành thay !

              Quả thật, ngoài lạc trú này

       Không một lạc trú nào thay thế bằng

          Cao thượng hơn các phần chứng thủ

          Thù thắng hơn lạc trú như vầy ”.

 

              Thế Tôn biện thuyết trình bày

       Ba vị Tôn-giả nơi này nghe qua

          Kim-Bi-La và Nan-Đi-Ká

          Cùng A-Nú-Rút-Thá  hân hoan

              Được Phật khai thị rõ ràng

       Làm cho phấn khởi, vô vàn kính tôn.

 

         Đức Thế Tôn từ nơi bảo tọa 

         Đứng lên về trú xá tịnh hòa.

             Sau khi đưa tiễn Phật Đà

       Na-Đi-Dá, Kim-Bi-La hai ngài

          Nói với ngài A-Nu-Rút-Thá

         (Là Tôn-giả A-Nậu-Lâu-Đà) :

 

         – “ Chúng tôi chưa hề nói qua

       Với huynh, A-Nú-Rút-Tha như vầy :

         ‘Chúng tôi đây công phu hạ thủ

     ______________________________

(1) :  Chữ  Sàdhu  là ‘Lành thay’ hay ‘Thiện tai! Thiện tai !’.

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –470  

 

Đã chứng và an trú quả này’,

              Nhưng trước mặt Thế Tôn Ngài

       Tôn-giả nêu rõ, trình bày lớp lang

          Các quả chứng rõ ràng, tuần tự

          Cho đến sự lậu-hoặc đoạn trừ ”.

 

         – “ Quả thật ! Chư vị an như

       Dù chứng, trú quả riêng tư mình rồi

          Không hề nói với tôi điều ấy

          Nhưng với tâm, tôi thấy, biết ngay

              Tâm của các Tôn-giảđây

       Hiểu rằng hai vị sâu dày thiền-na

Đã chứng và trú an quảđó,

          Chư Thiên cũng nói nhỏ với tôi :

              ‘Hai Tôn-giả chứng trú rồi !’

       Chính nhờ thế, tôi trả lời Thế Tôn

          Các câu hỏi Thế Tôn đã hỏi,

          Thật viên mãn về mọi vấn đề”.

 *   *   *

              Nơi tịnh địa, khi đêm về

       Có một Dắc-Khá (thuộc về Dạ-xoa)

          Tên Đi-Gá  Pa-Ra-Chá-Ná(1)

          Đến hương-thất Giác Giả Phật Đà

Đảnh lễ, một bên đứng qua

       Dạ-xoa Trường Quỷ thưa ra với Ngài :

    – “ Bạch Thế Tôn ! Lành thay ! Ân tứ

          Lợi ích thay cho xứ Vách-Chi !            

              Lợi ích dân chúng Bạt-Kỳ !

Đã được Đấng Chánh Biến Tri, Phật Đà

          Và A-Nu-Rút-Tha Tôn-giả

     ______________________________

(1) : Yakkha – Dạ-xoa tên Digha Parajana .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –471  

 

          Nan-Đi-Dá và Kim-Bí-La,

              Ba vị Tôn-giả tịnh hòa

       Cùng Phật an trú xứ xa Bạt-Kỳ ”.

 

          Khi nghe tiếng Dạ-xoa Đi-Gá

          Nói như thế, tất cảĐịa-thần

              Làm cho tiếng này vang ngân

       Khắp nơi nghe được, đến dần cõi Thiên

          Tứ Thiên Vương (1), Chư Thiên Đao Lợi (2)

          Vang thấu tới Đâu-Suất-Đà Thiên (3)

              Dạ-Ma Thiên (4), Hóa Lạc Thiên (5)

       Cùng Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên (6) cao vời

          Phạm Chúng Thiên cung Trời cũng thấu

          Nghe lời nói của Hảo Dạ-xoa :

           “ Chư Hiền-giả khắp gần xa !

       Thật là lợi ích ! Thật là lành thay !

          Thật tròn đầy Vách-Chi quả phước !

          Dân Bạt-Kỳ có được đại duyên :     

              Đấng Chánh Đẳng Giác Cha Hiền

        Cùng với ba vị hiện tiền Thánh Tăng

           Kim-Bi-Lá và Nan-Đi-Dá

           Cùng A-Nu-Rút-Thá - ba vì.

               Phật cùng Thánh chúng uy nghi

     ______________________________

     *  Các cõi Trời Dục Giới :

  (1) : Tứ Thiên Vương Thiên : Catumahàràjikà devà .

  (2) : Đao-Lợi Thiên : Tàvatimsa devà .

  (3) : Đâu-Suất-Đà Thiên (hay Đâu-Suất Thiên): Tusità devà .

  (4) : Dạ-Ma Thiên : Yama devà .

  (5) :  Hóa-Lạc Thiên : Nimmànarati devà .

  (6) :  Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên : Paranimmitavasavatti devà .

  ( Theo thứ tự từ thấp lên cao : Tứ Thiên Vương, Đao Lợi, Dạ-Ma, Đâu-Suất, Hóa-Lạc và Tha Hóa Tự Tại ; nhưng để tiện cho khổ thơ nên đã đểĐâu-Suất dưới Dạ-Ma Thiên ) .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –472  

 

       Trú ngụ tại xứ Bạt-Kỳ nơi đây.

          Giờ phút này, sát-na như vậy

          Các vịấy đang được tôn xưng

              Cho đến cõi Trời các từng

       Chư Thiên các cõi vui mừng hân hoan

          Cõi Phạm Thiên cũng đang tán thán

          Xứ Bạt-Kỳ viên mãn phước dày ”.

 

         – “ Sự việc đúng là như vầy !

       Sự việc là như vậy, này Đi-Ga !

       * Gia đình nào của ba vịấy

         (Là người thấy biển khổ tử sinh

              Xuất gia, từ bỏ gia đình)

       Các gia đình ấy thân tình nghĩ ngay

          Đến vị này, người mình tôn quý

          Với tâm niệm hoan hỷ tràn đầy

              Sẽ được hạnh phúc lâu dài 

       Sẽ được an lạc đêm ngày trải qua.

 

       * Còn nếu là bà con quyến thuộc

          Của ba vịđã được nêu danh,

              Nghĩ đến ba vị tịnh thanh

       Với tâm hoan hỷ, thiện lành chẳng sai

          Thì họ sẽ lâu dài hạnh phúc

          Được an lạc, hòa mục biết bao !

 

           * Nếu làng xóm, xãấp nào

       Thành phố hay quốc độđâu bất kỳ,

       * Nếu tất cả các vì Phạm-chí(1)

          Sát-Đế-Lỵ, Phệ-Xá, Thủ-Đà(1)

              Thế giới Chư Thiên , Ác Ma

       Phạm Thiên, cùng với Chúng Sa-môn tuyền

    ______  (1) : Xem chú thích ở  trang kế .

Trung Bộ (Tập 1)Tiểu K. 31 : RỪNG SỪNG BÒ*MLH –473  

 

          Bà-la-môn , Chư Thiên , Nhân loại

          Tất cả mọi cảnh giời như vầy

              Nhớ đến ba Tôn-giả này

       Tâm niệm hoan hỷ tràn đầy bao nhiêu

          Thì tất cả được nhiều an lạc

          Và sẽđạt hạnh phúc lâu dài.

              Này Đi-Ga ! Quán sát ngay

       Xem đời sống ba vị này bình sinh :

         ‘Vì hạnh phúc chúng sinh ba cõi,

          Vì an lạc cho mọi chúng sinh,  

              Vì thương tưởng đời vô minh 

       Vì hạnh phúc, vì an lành Thiên, Nhân’.

 

          Pháp âm Phật chánh chân diễn tả

          Nên Đi-Gá  Pa-Rá-Cha-Na

             (Dắc-Khá - Trường quỷ Dạ-xoa)

       Hoan hỷ, tín thọ gấm hoa lời Ngài ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )

 

*

 *    *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 31 :  Tiểu Kinh RỪNG SỪNG BÒ

CÙLAGOSINGA  Sutta  )

 

    __________________________________

 

*  Phạm-Chí hay Bàn-Môn tức là Bà-La-Môn .

(1) : Theo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch : Bà-la-môn (Brahmana - giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự), Sát-Đế-Lỵ ( Khattiyà - giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Vessà - Thương gia) . Giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La ( Suddà )  hay Chiên-Đà-La ( Candala ) . 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2011(Xem: 3133)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 2816)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 2794)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 4478)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 2669)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 3034)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 8245)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
14/12/2010(Xem: 2127)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
13/12/2010(Xem: 21655)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567