Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mẹ tôi

14/01/201115:23(Xem: 5342)
Mẹ tôi

 red_rose_100

Mẹ Tôi

Võ Đại Sinh

---o0o---

 

Ba tôi qua đời cách đây 4 năm. Mẹ tôi mất cách đây đúng 4 tháng. Cả hai đều ra đi sau một thời gian khá dài cầm cự với cơn bệnh, ở tuổi 89. Mới ngày nào đây, khi chùa Quảng Đức dời về trụ sở mới ở Fawkner, nhân ngày báo hiếu Vu Lan, thầy Tâm Phương còn trao cho tôi đóa hoa hồng, lòng tôi vừa vui mừng vừa lo. Mẹ tôi đã ra vào bịnh viện khá nhiều lần trong 2 năm qua. Ngày Ba tôi mất, điện thoại từ Việt Nam báo tin vào lúc nửa đêm. Từ đó cứ mỗi lần điện thoại reo vào nửa khuya là tim tôi hồi hộp lạ thường. Tôi đang lo một điều khó tránh thoát được, Mẹ tôi càng ngày càng yếu đi và có thể ra đi bất cứ lúc nào...

Một đêm, sau tiệc cưới, về nhà, tôi được điện thoại từ Việt Nam sang báo tin Mẹ mất. Ngày được tin Ba mất, nước mắt tôi chảy dài. Hôm nay, Mẹ mất, nước mắt tôi không rơi, nhưng sao lòng tôi như đang chết lặng, tim tôi như ngừng đập. Ba mất, một mất mát quá lớn. Mẹ mất, một mất mát hình như to tát hơn. Không hiểu đó có phải là tâm trạng chung của mọi người, hay của chỉ riêng tôi, vì tư chất và hoàn cảnh quá đặc biệt của Mẹ tôi.

Hình như Mẹ tôi cũng có được sống qua một thời gian ngắn đầy đủ, sung túc. Nhưng đó chỉ là chuyện tôi nghe kể lại, lúc tôi chưa chào đời, và khoảng thời gian đó quá ngắn, không để lại một dấu tích, một ấn tượng nào trong tiềm thức tôi. Bây giờ, Mẹ mất, cố nghĩ, cố đào sâu ký ức... tôi thật không nhớ được Mẹ tôi có ngày nào được sung sướng.

Không biết các anh chị em tôi như thế nào, chớ riêng phần tôi, bất cứ một thành công nào trong cuộc đời tôi, dù lớn, dù nhỏ đều được trả giá bằng sự hy sinh của Mẹ tôi. Một người đàn bà mù chữ, nghèo khó, trong hoàn cảnh của Mẹ tôi, làm được việc gì để giúp cho sự khôn lớn, thành công của 8 đứa con, ngoài chấp nhận cuộc sống làm thuê, ở mướn. Tôi học trung học ở Gò Công, Mẹ tôi ở mướn ở Gò Công. Tôi lên Sài Gòn học đại học, Mẹ tôi lên theo tiếp tục nghề ở mướn ở Sài Gòn. Nhục nhằn Mẹ tôi gánh chịu trong thời gian ở mướn ở Gò Công tôi không được biết. Những chịu đựng của Mẹ tôi trong thời gian ở mướn ở Sài Gòn tôi trực tiếp chứng kiến, cùng chia xẻ, chịu đựng với Mẹ tôi. Vui buồn của Mẹ con tôi trong thời gian nhục nhằn đó tùy thuộc trọn vẹn vào buồn vui của 3 ông chủ con. Con nhà giàu, từ Gò Công, lên Sài Gòn học, tiền bạc dư thừa, 3 cậu tha hồ làm mưa làm gió. Và mưa gió đó đã vùi dập cuộc sống của Mẹ con tôi.

Tôi ra trường năm hai mươi ba tuổi. Mẹ tôi chấm dứt cuộc sống hai mươi ba năm ở mướn, thì hình như đã quá trễ. Nghèo khó đeo đẳng quá lâu... đã khiến Mẹ tôi luôn sợ nghèo, sợ khổ, không quen sống cuộc sống đầy đủ tiện nghi. Ở mướn thời gian quá dài đã khiến Mẹ tôi quen thuộc với chịu đựng, gọi dạ, bảo vâng... đến không dám nhờ vả, sai khiến bất cứ ai, dù rằng anh chị em tôi lúc đó đã có đủ khả năng lo cho Ba Mẹ tôi đủ ăn đủ mặc, dù rằng lúc đó, quanh Mẹ tôi có hàng chục con cháu sẵn sàng lo lắng, phục vụ ! Ngày cả trong lúc bạo bịnh, thời gian ngắn chị em tôi túc trực nằm vây quanh giường bịnh, Mẹ tôi cũng ngại ngùng chẳng dám làm phiền con, dâu, nửa đêm, nhẹ nhàng lén đi tiểu, tiểu một mình...

Năm 1974, tôi cưới vợ. Với địa vị xã hội và sự quen biết của tôi ở thời điểm đó, đám cưới tôi được tổ chức lớn lắm, lớn nhứt quận Hòa Đồng, theo như nhiều người kể lại. Ba Mẹ tôi lo lắng thật nhiều, nhưng khổ nhất là Mẹ tôi, vì thương con, cũng vì thương con, đã bỏ ra hàng tuần để tập đồ đi đồ lại tên mình, chuẩn bị ký tên vào tờ hôn thú cho vợ chồng tôi trong ngày trọng đại đó. Khổ cho người Mẹ mù chữ, thương con của tôi. Mẹ tôi ngại cho tôi, nhưng tôi thì không. Tôi luôn hãnh diện vì Mẹ tôi, vì sự mù chữ của Mẹ tôi ! Đức Đạt Lai Lạt Ma ca tụng người Mẹ vĩ đại của Ngài vì những hy sinh chẳng đáng gì đâu, nếu so với sự hy sinh của Mẹ tôi ! Tôi không biết diễn đạt thế nào cho đầy đủ về sự hy sinh của Mẹ tôi, cho xứng đáng với sự hy sinh của Mẹ tôi. Điều chắc chắn là, với tôi, Mẹ tôi vĩ đại hơn Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ngày Mẹ tôi mất, tôi được tin quá trễ, vào lúc nửa đêm thứ Bảy. Ngày Chúa Nhật không làm được việc gì. Sáng thứ Hai tôi phải bay vội về Việt Nam qua một đêm chờ đợi ở phi trường Singapore. Trên phi cơ tôi đã vội vàng chuẩn bị bài điếu văn khóc Mẹ. Đường bị kẹt ở cầu Long An khá lâu, về đến nhà vào ngày thứ Ba, chỉ còn 5 phút nữa đến giờ động quan. 5 phút ngắn ngủi chỉ đủ cho tôi vật vả lạy Mẹ trước quan tài. Điếu văn khóc Mẹ do vậy đã không được đọc, dù rằng tôi thèm được khóc với Mẹ tôi lần tiễn biệt cuối cùng. Tôi thèm nói cho Mẹ tôi biết cảnh tang tóc của tiểu gia đình tôi ở nơi tha hương khi được hung tin. Tôi thèm nói cho Mẹ tôi biết về sự đau buồn, thê lương của 3 đứa con tôi, Đoan Trang, Việt Nam, Khoa Nam, khi được tin Bà Nội mất.

Chiều chiều, từ ngày trở lại Úc sau đám tang Mẹ, trên căn gác lửng nhà tôi, nhìn chim bay từng đàn, tôi thật sự không biết chúng đang bay từ đâu, định đến hướng nào, nhưng tôi chắc chắn là chúng đang trên đường về với Mẹ, về quê Mẹ. Khi Mẹ tôi còn sống, tôi về Việt Nam mỗi năm đôi, ba lần. Từ khi Mẹ tôi mất, quê hương Việt Nam vẫn còn đó, nhưng lòng tôi không còn nao nức muốn về thăm nữa. Hình như khi mất Mẹ, sự gắn bó với quê hương cũng mất theo với Mẹ. Thầy Nhất Hạnh trong quyển bông hồng cài áo khi nói về Mẹ đã viết "Tôi thấy tôi mất Mẹ, mất cả một bầu trời". Còn tôi, từ ngày mất Mẹ, tôi mất cả quê hương, mất luôn cả đường về !

     Melbourne 8-3-1998


vo dai sinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2011(Xem: 3134)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 2819)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 2794)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 4478)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 2669)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 3035)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 8245)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
14/12/2010(Xem: 2128)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
13/12/2010(Xem: 21661)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567