Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Kinh Pháp Môn Căn Bản

18/05/202019:48(Xem: 15013)
01. Kinh Pháp Môn Căn Bản

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tựTUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



1.Kinh  PHÁP MÔN CĂN BẢN
( Mùlapariyàya-sutta )
 
Như vầy tôi nghe :
 
 1.Một thời, Đức Thế Tôn (1)du hóa
          Trú tại Úc-Kát-Thá (2) địa phương
              Rừng Su-Pha-Ga (2) an tường 
       Dưới gốc cây Sa-La-vương (3) hoa đầy
          Tại nơi đây, Thế Tôn khai thị :
 
– “ Hãy nghe kỹ, này các Tỷ Kheo ! ”
              Chư Tăng tùy thuận, vâng theo
Chăm chú nghe giảng, những điều Thế Tôn
          Đề cập về “ Pháp Môn Căn Bản
          Tất cả Pháp ”, viên mãn thiên thu.
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Kẻ phàm phu  (4)
Ít nghe, không thấy phạm trù Thánh Nhân (5)
___________________________________
(1) : Mười danh hiệu người đời xưng tụng Đức Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthàdevamanus-sànam (Thiên Nhân Sư), Buddha (Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn).
 (2) : Tụ lạc Ukkattha , trong rừng Subhaga (Rừng Hạnh phúc ).
 (3) : Cây  Sala : Loại cây lớn có hoa to bằng nắm tay màu đỏ sẫm
 mùi thơm nồng, những cánh hoa xếp tỏa ra như hoa sen, nhụy hoa vươn lên giống nhưđầu rồng nên thường  được gọi là Long thọ ( Sa-la long thọ ).
(4) : Kẻ phàm phu : Puttujjana .
(5) : Thánh nhân - Ariyàna ( chỉ chưPhật,, chư vị A-La-Hán …) 
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH002
 
          Không thuần thục pháp phần bậc Thánh
          Không tu tập pháp Thánh chánh chân.
              Không được thấy các Chân Nhân  (1)
       Không thuần thục pháp Chân-nhân các phần,
          Không tu tập Chân-nhân các pháp
          Nên tưởng tri (2) sai lạc như vầy :
              Cho rằng ‘địa đại’ ở đây
       Chỉ là ‘địa đại’ (3); nghĩ ngay đất này.
          Lấy [tự ngã ] người này đối chiếu
          Với địa đại, y hiểu như nhau
              Cho nên người ấy nghĩ mau :
 ‘Địa đại như vậy thuộc vào của ta’.
Đó chính là ‘dục hỷ địa đại’.
          Vì sao vậy ?  Ta nói vấn đề
              Người ấy rõ ràng không hề
Liễu tri địa đại, mọi bề không thông.
 
          Cũng tương đồng, kẻ này ngu dại
          Tưởng tri rằng các đại trên đời
             ‘Thủy đại là thủy đại’ (4) thôi
      ‘Hỏa đại là hỏa đại’ (5). - rồi nghĩ ra
          Tưởng tri ‘phong đại là phong đại’ (6)
          Nghĩ đến vậy về ‘thủy, hỏa, phong’
              Nghĩ đến [tự ngã ] bên trong
       Đối chiếu với ‘thủy, hỏa, phong đại’ này,
          Vì nghĩ đến ở đây [tự ngã ]
          Như là ‘phong, thủy, hỏa đại’ mà !
  _______________________________
 (1) : Chân nhân – Suppurisa  ( chỉ chư Độc-giác Phật )
 (2) : Tưởng tri : Sannàjànàti ( sự hiểu biết của phàm phu ) .
 (3) & (4) & (5) & (6) : TứĐại ( Catudhàtumanasikàra ) gồm Địa,
        Thủy, Hỏa, Phong  hay Đất, Nước, Lửa, Gió ( Pathavi , Àpo ,
        Tejo , Vàya ). 
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN * MLH003
 
              Nghĩ : ‘Các đại là của ta’
      ‘Dục hỷ thủy đại’ trải qua chẳng chầy.
‘Dục hỷ hỏa đại’ này, tương tự,
‘Dục hỷ phong đại’, cứ biết vầy.
              Vì sao vậy ? Ở điều này
       Ta nói người ấy chẳng hay biết gì,
          Không liễu tri (1)  thủy, phong, hỏa đại.
 
          Hoặc tưởng tri  Sanh loại  (2), chư Thiên (3)
              Tưởng tri Hóa Sanh Chủ (4) liền
       Phạm Thiên (5) thì biết Phạm Thiên hiện tiền
          Tưởng tri Quang Âm Thiên tịnh-xứ
          Là tịnh xứ tên Quang Âm Thiên  (6)
              Hoặc tưởng tri Biến Tịnh Thiên  (7)
       Cũng chính là Biến Tịnh Thiên một miền
          Tưởng tri Quảng Quả Thiên (8), mô tả
          Chính là Trời Quảng Quả đặc thù
              Tưởng tri về A-Phi-Phu  (9)
Là (Thắng Giả) A-Phi-Phu một bề.
  _______________________________
 (1) : Liễu tri :Parinnà ( hiểu biết trọn vẹn - chỉ sự hiểu biết
         của Phật ) .     (2) : Sanh loại hay Sinh vật tức Chúng sinh .
(3) :Chư Thiên :Deva. (4) :Sanh Chủ& Hóa Sanh Chủ: Pajàpati.
(5) :Phạm Thiên : Brahmà . Cõi Phạm Thiên : Brahma Kayikà .
(6) : Quang Âm Thiên : Abhassara  –  là cõi Nhị Thiền , bao
    gồm cả cõi Thiểu Quang Thiên ( Parittàbhàbhùmi ) và Vô
    Lượng Quang Thiên ( Appamàtàbhàbhùmi ) . 
(7) : Biến Tịnh Thiên : Subhakitha  –  là cõi Tam Thiền, gồm
    3 cõi : – Thiểu Tịnh Thiên ( Parittasubhàbhùmi ) .
               –  Vô Lượng Tịnh Thiên ( Appamànasubhàbhùmi ) .
               –  Biến Tịnh Thiên ( Subhàkithàbhùmi ) .
(8) : Quảng Quả Thiên : Vehapphalà .
(9) : Thắng Giả  – Abhibhù : là tên gọi khác của chúng sinh
    cõi Vô Tưởng ( Asannasattabhùmi ) thắng tri Danh Uẩn ,
    do vậy được gọi là Thắng Giả .       
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN * MLH004
 
          Tưởng tri về Không-vô-biên-xứ  (1)
          Là Không-vô-biên-xứ ; chấp trì
              Thức-vô-biên-xứ  (2) tưởng tri
Là Thức-vô-biên-xứ, vì tư duy.
          Hoặc tưởng tri Vô-sở-hữu-xứ  (3)
Là Vô-sở-hữu-xứ  tức thì.
              Tưởng tri Phi-tưởng-phi-phi
       Chính là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng (4) mà !
Tưởng tri sở kiến là sở kiến,
Và sở văn là diện sở văn,
              Tưởng tri sở-tư-niệm hằng
       Là sở-tư-niệm khăng khăng như là !
Về đồng-nhất biết là đồng nhất.
Còn về mặt sai-biệt, tưởng tri
Chính là sai-biệt mọi thì,
Tất cả là tất cả, y hiểu vầy.
          Rồi người này tưởng tri  nhất định 
Niết-bàn chính là Niết-bàn đây.
              Tưởng tri Niết-bàn như vầy
Y nghĩ đến Niết-bàn đầy lạc an.
          Rồi nghĩ đến việc mang [tự ngã ]
          Để đối chiếu cao cả Niết-bàn.
Nghĩ [tự ngã] như Niết-bàn (5).
       Người ấy liền nghĩ : ‘Niết-bàn của ta’.
‘Dục hỷ Niết-bàn’ là thế ấy.
  _______________________________
    (1) : Không Vô Biên Xứ : Akàsànantàyatana .
    (2) : Thức Vô Biên Xứ : Vinnànancàyatana .
    (3) : Vô Sở Hữu Xứ : Akimcanyàyatana .
    (4) : Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ :
                     Nàvasamjnà – nàsamjnàyatana .
    (5) : Niết Bàn : Nibbàna .
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN * MLH005
 
          Vì sao vậy ? Ta nói rõ ràng :
        “ Y không liễu tri Niết-bàn
       Phàm phu bao kẻ trải sang như vầy ”.
* * *
          Các Tỷ Kheo ! Đoạn rày tam độc
          Có Tỷ Kheo hữu học tịnh thanh
Như Phàm Tăng (Thanh tịnh Tăng)
     ( Hoặc đắc Thánh-quả ba tầng thanh trai
          Là Thất Lai (1), Nhất Lai (2) đạo quả
          Và Bất Lai (3) đạo quả nghiêm an
              Nhưng chưa thành tựu hoàn toàn
       Thành bậc Vô Học (4) rỡ ràng thanh cao )
          Các vị ấy cần cầu vô thượng
          Khỏi khổ ách, an hưởng vui thay ! 
              Thắng tri (5) địa đại điều này
       Chính là địa đại , tỏ bày thẳng ngay.
          Vì thắng tri như vầy địa đại
Không nghĩ đến địa đại ở đây,
Không nghĩ [tự ngã] điều này
       Đối chiếu địa đại trình bày lớp lang.
          Không nghĩ so sánh ngang [tự ngã ]
          Như là cả địa đại bao la
Không nghĩ : ‘địa đại của ta’.
    _______________________________
* Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  :
(1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )  hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả
       ( chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần).
(2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 
(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời
Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   
(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng
       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .
(5) :Thắng tri : Abhijànàti  ( hiểu biết cao )  
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH006
 
       Không dục hỷ địa đại qua việc này.
          Vì sao vậy ? Như Lai nói rõ
          Vị ấy có thể được liễu tri
Về địa đại chẳng khó chi.
 
       Cũng vậy, vị ấy thắng tri thuận đồng  
          Về thủy, hỏa và phong đại tất
          Hoặc thắng tri Sanh vật, chư Thiên
              Thắng tri Hóa Sanh Chủ liền
       Phạm Thiên thì biết Phạm Thiên hiện tiền
          Thắng tri Quang Âm Thiên tịnh-xứ
          Là tịnh xứ tên Quang Âm Thiên
              Hoặc thắng tri Biến Tịnh Thiên
       Cũng chính là Biến Tịnh Thiên một miền
          Thắng tri Quảng Quả Thiên, mô tả
          Chính là Trời Quảng Quả đặc thù
              Thắng tri về A-Phi-Phu
Là (Thắng Giả) A-Phi-Phu một bề.
 
          Thắng tri về Không-vô-biên-xứ
          Là Không-vô-biên-xứ ; chấp trì
              Thức-vô-biên-xứ thắng tri
Là Thức-vô-biên-xứ, vì tư duy.
          Hoặc thắng tri Vô-sở-hữu-xứ
Là Vô-sở-hữu-xứ  tức thì.
              Thắng tri Phi-tưởng-phi-phi
       Chính là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng mà !
          Thắng tri sở kiến là sở kiến,
Và sở văn là diện sở văn,
              Thắng tri sở-tư-niệm hằng
       Là sở-tư-niệm – các phần kể qua
Về đồng-nhất biết là đồng nhất.
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN * MLH007
 
Còn về mặt sai-biệt, thắng tri
Chính là sai-biệt mọi thì,
Tất cả là tất cả, y hiểu vầy.
          Rồi vị này thắng tri nghiêm chỉnh 
          Niết-bàn chính là cõi Niết-bàn.
              Thắng tri Niết-bàn như vầy
       Vịấy không nghĩ đến ngay Niết-bàn.
          Không nghĩ sang vấn đề  [tự ngã]
          Để đem cả đối chiếu Niết-bàn.
              Không nghĩ [tự ngã] –  Niết-bàn
       Là hai ý niệm hoàn toàn như nhau.      
          Không nghĩ , không nhắm vào, bám lấy :
‘Niết Bàn ấy của ta’ hoàn toàn.
              Và không dục hỷ  Niết Bàn.
       Vì sao ? Ta nói rõ ràng ởđây :
          Vị Tỷ Kheo như vầy có thể
          Sẵn sàng để  liễu tri Niết Bàn.
* * *
              Lại nữa , Tỷ Kheo hoàn toàn
       Là A-La-Hán, chứng hàng pháp siêu
Đạt mục tiêu tối cao bậc Thánh
          Người xuất gia chân chánh mong cầu
              Vô thượng Phạm hạnh cao sâu
       Lậu-hoặc đã tận, thanh cao hoàn toàn
          Với thắng trí, trú an, chứng đạt
          Tâm vịấy an lạc, sáng trong 
              Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong
       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trái oan
          Cả gánh nặng đã mang, đặt xuống
Đạt lý tưởng mong muốn hàng đầu
              Tận trừ hữu-kiết-sử mau
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH008
 
       Chánh trí giải thoát, trần lao thoát nàn
          Hiểu rõ rằng tự thân giải thoát
          Sanh đã tận, phạm-hạnh đã thành
              Việc cần làm đã thực hành
       Sau đời hiện tại, Vô Sanh hiển bày.
 
          Và vị này thắng tri địa đại
          Làđịa đại, nguyên tốởđây
              Thắng tri địa đại như vầy
       Nên không nghĩđến đất này ra sao.
          Lại không nghĩ nhắm vào [tự ngã]
Đem đối chiếu với cảđất này.
              Không nghĩ [tự ngã ] ởđây
       Như làđịa đại, trình bày sánh so.
          Không nghĩ do chính phần ‘địa đại
          Là của ta’, không phải của ai.
              Không dục hỷđịa đại đây.
       Vì sao ? Ta nói vị này tự thân
Đã liễu tri về phần địa đại.
 
          Và vịấy tiếp tục thắng tri
          Thủy, hỏa, phong đại tức thì
       Thắng tri Sanh vật, các vì chư Thiên
          Hóa-sanh-chủ, Phạm Thiên vinh hiển
          Quang Âm Thiên và Biến Tịnh Thiên
              Thắng tri về Quảng Quả Thiên
       A-Phi-Phu (Thắng Giả) miền nghiêm uy.
          Rồi thắng tri Không Vô Biên Xứ
          Là Không Vô Biên Xứ, chẳng sai,
              Còn Thức Vô Biên Xứ này
       Là Thức-vô-biên-xứ, biết ngay tức thì.
          Biết Phi Tưởng Phi Phi Tưỏng Xứ
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH009
 
          Là Tưởng xứ Phi tưởng phi phi.
              Vịấy tiếp tục thắng tri
       Thuộc vềDanh-pháp đồng thì nơi nơi
          Sở-kiến thời thắng tri sở-kiến
          Sở-văn, sở-tư-niệm cùng là
              Sở-tri, đồng-nhất … biết qua
       Cùng với sai-biệt – đều là thắng tri
          Rồi tất-cả thắng tri tất-cả
          Vị Thánh giả cũng biết rõ ràng
              Niết-bàn chính là Niết-bàn
       Nên không nghĩđến Niết-bàn minh quang.
          Không nghĩđem Niết-bàn tiêu biểu
Đem đối chiếu [tự ngã ] bày ra.
             Không nghĩ [tự ngã ] như là
       Niết-bàn an lạc ; Không là của ta.
          Không dục hỷ Niết-bàn gì cả.
          Vì sao vậy ? Thánh giảấy thời
Đã liễu-tri Niết-bàn rồi.
       Lại nữa, Thánh giả không rời uy nghi 
          Hăm bốn điều thắng tri : Sắc pháp
          Danh-Sắc pháp, Danh pháp- rõ ràng
              Như Niết-bàn là Niết-bàn
       Nên không nghĩđến Niết-bàn minh quang.
          Không nghĩđem Niết-bàn cao cả
Đem đối chiếu [tự ngã] bày ra,
             Không nghĩ [tự ngã] như là
       Niết-bàn an lạc ; ‘Không là của ta’.
          Không dục hỷ Niết-bàn gì cả.
          Vì sao vậy ? Thánh giảấy thì
              Không cótham dục, sân, si
       Nhờ sân, tham dục và si đoạn trừ.
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH010
 
          Các Tỷ Kheo ! Bậc Như Lai ấy
          Chánh Đẳng Giác, vô ngại Phật Đà
              Thắng tri địa đại chính là
Địa đại. Do biết sâu xa như vầy
          Ngài không nghĩđất này gì cả
          Không nghĩđến [tự ngã] đem ra
Đối chiếu địa đại trải qua.
       Không so [tự ngã] như làđất đây .
          Không nghĩ ngay ‘của ta địa đại’
          Không dục hỷđịa đại mảy may
              Vì sao vậy ? Ta nói ngay :  
       Liễu tri địa đại, Như Lai rõ bày.
 
          Từ Như Lai thắng tri địa đại
          Rồi tiếp tục Ngài lại thắng tri
              Thủy, hỏa, phong đại tức thì
       Thắng tri Sanh vật, các vì Chư Thiên
          Hóa-sanh-chủ, Phạm Thiên vinh hiển
          Quang Âm Thiên và Biến Tịnh Thiên
              Thắng tri về Quảng Quả Thiên
       A-Phi-Phu (Thắng Giả) miền nghiêm uy.
          Rồi thắng tri Không Vô Biên Xứ
          Là Không Vô Biên Xứ, chẳng sai
              Còn Thức Vô Biên Xứ này
       Là Thức-vô-biên-xứ, biết ngay tức thì.
          Biết Phi Tưởng Phi Phi Tưỏng Xứ
          Là Tưởng xứ Phi tưởng phi phi.
 
              Như Lai tiếp tục thắng tri
       Thuộc về Danh-pháp đồng thì nơi nơi
          Sở-kiến thời thắng tri sở-kiến
          Sở-văn, sở-tư-niệm cùng là
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH011
 
              Sở-tri, đồng-nhất … biết qua
       Cùng với sai-biệt – đều là thắng tri
          Rồi tất-cả thắng tri tất-cả
          Như Lai đãhiểu biết rõ ràng
              Niết-bàn chính là Niết-bàn
       Nên không nghĩđến Niết-bàn minh quang.
          Không nghĩđem Niết-bàn tiêu biểu
Đem đối chiếu [tự ngã] bày ra.
             Không nghĩ [tự ngã] như là
       Niết-bàn an lạc ; ‘Không là của ta’,
          Không dục hỷ Niết-bàn gì cả.
          Vì sao vậy ? Ta đã nói rằng :
              Như Lai liễu tri Niết-bàn
 
       Này Tỷ Kheo chúng ! Minh quang Phật Đà
          Cũng là bậc Đại A-La-Hán
          Chánh Đẳng Giác viên mãn toàn tri
              Lần lượt Như Lai thắng tri
       Tứđại – Sắc Pháp – bốn chi thuộc về
          Tám vấn đề thuộc Danh-Sắc Pháp :
          Là chúng sinh (sinh vật); Chư Thiên;
              Hóa Sanh Chủ và Phạm Thiên
       Quang Âm Thiên; Biến Tịnh Thiên; cùng là
          Quảng Quả; A-Phi-Phu (Thắng Giả).    
          Thuộc Danh Pháp  –  tất cả mười hai :
              Không & Thức Vô Biên Xứđây;
       Vô Tưởng Hữu Xứ; cõi này thắng tri
          Và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ;
          Rồi thứ tự : sở kiến; sở văn;
              Sở tư niệm (sở xúc) phần
Đồng nhất; sai biệt; và phần sở tri;
 
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH012
 
          Và tất cả ; những gìđồng - dị
          Ngài thắng tri hoàn mỹ, rõ ràng
              Rằng Niết-bàn là Niết-bàn,
       Ngài không nghĩ đến Niết-bàn mảy may .
          Không nghĩđến đem ngay [tự ngã]
Đểđối chiếu với cả Niết-bàn.
          Không nghĩ [tự ngã] – Niết-bàn
       Giống nhau. Không nghĩ : ‘Niết-bàn của ta’.
          Không dục hỷ Niết-bàn tịch tịnh
          Vì sao vậy ? Vì chính Như Lai
              Biết rằng : Dục hỷởđây
       Chính là căn bản sinh rày khổđau,
          Do từ Hữu, đưa mau Sanh khởi
          Và Già, Chết đến với sinh-loài.
              Do vậy, các Tỷ Kheo này !
       Ta nói một vị Như Lai Từ Hàng
Đã diệt trừ hoàn toàn các ái 
          Sự ly tham và lại xả ly
              Cùng sựđoạn diệt tức thì
       Từ bỏ các ái, hiểm nguy mọi đàng
Đã chân chánh minh quang giác ngộ
          Chánh Đẳng Giác, phổđộ viên thông ”.
 
              Lúc ấy, năm trăm Sa-môn
Được Phật khai thị pháp môn nhiệm mầu
          Là căn bản, cao sâu, chân thật
          Với thiền-chứng tám bậc thuộc về
              Xuyên qua hăm bốn vấn đề ,
       Năm trăm vịấy vẫn mê mờ hoài.
 
       [ Các vị này trước là Phạm-chí
          Lích-Cha-Vi giòng quý, tài ba
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN * MLH013
 
              Tinh thông ba tạng VệĐà
       Xuất gia theo Phật, trải qua hành trì
          Sinh kiêu mạn, so bì với Phật :
‘Phật thông hiểu Pháp, Luật huyền vi
              Ta cũng hiểu Pháp, Luật ni
       Chúng ta và Phật có gì khác nhau ?’.
          Không đến hầu Thế Tôn, thính pháp
          Tự thành lập hội chúng rất đông
              Ngang bằng hội chúng Thế Tôn
       Hiu hiu tựđắc bảo tồn tánh kiêu.
 
          Vì năm trăm Tỷ Kheo vừa kể
Đức Thiện Thệđến Úc-Kát-Tha
              Rừng Hạnh Phúc (Su-Pha-Ga)
       Năm trăm vịấy cùng qua hầu Ngài
Đấng Như Lai uy nghi thuyết giảng
          Kinh “ Pháp Môn Căn Bản ” trình bày
              Nhưng năm trăm Tỷ Kheo này
       Chẳng hiểu một tí, ngồi ngây, ngập ngừng
          Lúc đó họ mới thuần tâm ý
          Nghĩ Phật-trí tối thắng, mãn viên
              Dứt kiêu mạn, trở nên hiền
       Như nọc độc rắn được liền rút ra.
 
          Thời gian sau, Phật Đà giảng giải
          Cho năm trăm vịấy nghe qua
              Bài kinh “ Gô-Ta-Ma-Ka ” 
Đều đắc La-Hán, chứng tòa Vô Sinh ].
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
*
*  *
( Chấm dứt Kinh số 1 :  PHÁP MÔN CĂN BẢN  – MÙLAPARIYÀYA  Sutta  )
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH014
 
 
CHÚ THÍCH :
 
Trích : “ Luận Giải Kinh ‘Căn Bản Pháp Môn ’
của Tỷ Kheo CHÁNH MINH ”:
 
“ . . . Kinh Căn Bản Pháp Môn được Đức Thế Tôn thuyết ra nhằm mục đích nhiếp phục sự ngã mạn của 500 vị Tỷ Kheo .
(Khi duyên lành thuần thục, Ngài thuyết lên bài Kinh Gotamaka, cả 500 vị ấy đều chứng đắc A-La-Hán cùng Tuệ Phân Tích).
 
      500 vị Tỷ Kheo này trước đây là 500 thanh niên Licchavì dòng Bà-La-Môn ở Vesali, tinh thông ba tạng Vệ-Đà. Sau khi xuất gia trong Pháp Phật, đã nhanh chóng học hiểu Pháp & Luật, nên phát sinh kiêu mạn, cho rằng ‘mình ngang bằng với Đức Thế Tôn’. Họ suy nghĩ : “Bậc Chánh Đẳng Giác biết Pháp Luật này, chúng ta cũng biết Pháp Luật này. Như vậy giữa chúng ta và bậc Chánh Đẳng Giác có gì khác nhau ?”. Họ không đi đến hầu Đức Thế Tôn và sống với một hội-chúng ngang bằng với hội-chúng Đức Thế Tôn.
 
Khi Đức Thế Tôn đến Ukkattha, ngự trong rừng Subhaga
500 Tỷ Kheo này đến hầu Phật , Bậc Đạo Sư thuyết lên Kinh
Căn Bản Pháp Môn và nói lên 8 bậc Thiền-chứng. Họ không
hiểu được một điều gì cả.
 
     Trước kia họ kiêu mạn, cho rằng không một hiền trí nào bằng mình, nay nghe Đức Phật thuyết giảng Kinh mà chẳng hiểu một tí gì, họ suy nghĩ :‘ Đức Thế Tôn nói : Kẻ tưởng tri đất, chấp nhận là đất ; bậc Hữu học, bậc Vô học (A-La-Hán) và Như Lai biết rõ đất nhờ tuệ giác … là sao nhỉ ? Đây là nghĩa gì ? Đây có ý nghĩa như thế nào ?
     Trước kia chúng ta hiểu nhanh chóng bất cứ điều gì Đức Thế Tôn thuyết giảng, nhưng giờ đây chúng ta bị bế tắc trước những lời giảng này. Ôi ! Không có ai hiền trí như chư Phật !  Ôi ! Công đức của chư Phật thật tối thắng !’.
Trung Bộ(Tập 1) Kinh 01 :PHÁP MÔN CĂN BẢN* MLH015
 
     Từ đó trở đi họ không còn kiêu mạn, trở nên hiền lành như con rắn bị rút hết nọc độc.
 
     Về sau, sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng bài pháp Gotamaka, 500 vị Tỷ Kheo nói trên đều đắc A-La-Hán …”.
 
*
*  *
“… Nội dung Kinh ‘Căn Bản Pháp Môn’ nêu lên :
 
*  Bốn hạng người :
    1) Kẻ phàm phu ( Putthujjana ) .
    2) Thánh Hữu học ( Sekkhà ) . 
    3) Thánh Lậu Tận A-La-Hán ( Arahamkhitàsava ) .    
    4) Đấng Như Lai ( Tathàgata ) .
 
*  24 vấn đề :
    a)  Đất , nước , lửa , gió ( 4 vấn đề thuộc về Sắc pháp ) .
    b)  Chúng sinh , Chư Thiên , Phạm Thiên , Sanh Chủ ,
        Quang Âm Thiên, Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả Thiên,
        Thắng Giả  ( 8 vấn đề này thuộc pháp nhân chế định
        ( puggala pannatti ) hay thuộc về Danh – Sắc pháp ) .
    c)  Bốn tầng Thiền Vô Sắc giới (Không-vô-biên-xứ,Thức   
        vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-  
        xứ) , sở kiến , sở văn , sở xúc , sở tri , đồng nhất , sai
        biệt , tưởng tri tất cả (đồng, dị ), tưởng tri Niết-bàn
        ( 12 vấn đề thuộc Danh pháp ) .
 
       Năm tiêu đề từ Phạm Thiên đến Thắng Giả (Abhibhu )
là nói lên 4 bậc Thiền-chứng ( từ Sơ thiền đến Tứ thiền ).
Ba tầng Thiền đầu, Đức Thế Tôn đều nêu lên vị Phạm-chủ
Chúa tể . Tầng Tứ Thiền, Ngài nêu lên vị Phạm-chủ của phàm phu là Quảng Quả Thiên , đồng thời đề cập đến Vô
Tưởng Thiên . (Mỗi giai đoạn Thiền-chứng đều nẩy sinh
mạn , kiến và ái …”.
 
( Luận giải Kinh CBPM của Tỷ Kheo Chánh Minh )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 7258)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
31/08/2021(Xem: 7751)
Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch. Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ. Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn
25/08/2021(Xem: 8457)
Do sự cố vấn chỉ đạo của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Hội Đồng Hoằng Pháp của chúng con/chúng tôi rất hoan hỷ để kính trình Quý Ngài và Quý Vị chương trình giảng dạy tiếng Phạn cơ bản cho Tăng Ni cũng như Quý Phật Tử nào có tâm muốn trau dồi Phạn ngữ trên hệ thống Online như thư chiêu sinh của Giáo Sư Đỗ Quốc Bảo có gửi kèm theo thư nầy. Mục đích chính là để tiếp nối truyền thống đọc được kinh điển trực tiếp từ tiếng Phạn và có khả năng đọc cũng như dịch giải những bản Kinh bằng tiếng Phạn về sau nầy; nên bắt đầu từ tháng 9 năm 2021 việc chiêu sinh được thực hiện, nếu số lượng Tăng Ni và Phật Tử ghi danh đầy đủ như về số lượng và những điểm yêu cầu khác cho một người muốn học Phạn ngữ (xin xem điều kiện có gửi kèm ngay bên dưới). Vậy kính xin Quý Ngài tạo điều kiện cho tử đệ của mình tham gia học ngôn ngữ nầy để tiếp nối con đường của những bậc tiền nhân đã đi trước. Việc học nầy không hạn chế là Tăng Ni hay Phật Tử, miễn sao Quý Vị đáp ứng thỏa đáng được nhu cầu cần có và đủ của một người
23/08/2021(Xem: 2619)
Sau giờ tan trường, Dung thong thả đạp xe về nhà dọc theo đại lộ Thống Nhất. Đến ngã tư Thống Nhất-Hai Bà Trưng gặp đèn đỏ, Dung rẽ phải về hướng Tân Định. Với mái tóc thề đen mướt xõa trên vai áo dài màu tím của trường Nữ Trưng Vương làm cho nhiều người đang chờ đèn xanh không khỏi chú ý. Vài phút sau, bỗng có một chiếc xe Jeep chạy qua mặt Dung rồi dừng lại. Dung đạp xe đến gần, bất ngờ một thanh niên trong bộ quân phục sĩ quan Hải quân màu trắng từ trên xe nhảy xuống chặn làm Dung hốt hoảng dừng lại, lảo đảo suýt ngã xe. Anh chàng vội vàng đỡ xe cho Dung và nói: - Xin lỗi cô về cử chỉ đường đột của tôi. Cô cho tôi hỏi thăm, cô có phải là Dung, người Phan Rang không? - Xin lỗi, anh là ai mà hỏi tôi như thế? - Tôi là Thanh, bạn ngày xưa của Đạt, anh của Dung… - Vậy sao?… Dung chau mày, cơn bàng hoàng sợ sệt chưa dứt, trong đầu cố nhớ lại vì đã lâu lắm rồi không nghe anh Đạt nhắc đến. Thanh giải thích thêm để trấn an và chờ cho Dung hồi tưởng
23/08/2021(Xem: 3156)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên. Cây phong đầu ngõ lại chuẩn bị trổ sắc đỏ ối như mọi năm. Người đi xa từ những mùa thu trước, sẽ không trở về. Những người bạn lâu không gặp, thư gửi đi bị trả lại, nhắn tin điện thoại không thấy trả lời. Có lẽ cũng đã ra đi, không lời từ biệt.
19/08/2021(Xem: 7568)
Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm. Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp. Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh. Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật.
17/08/2021(Xem: 7443)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
06/08/2021(Xem: 9609)
Cũng như chuông, trống cũng được coi như là một loại pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng của đa số dân tộc theo Phật giáo. Phật tử Việt Nam chúng ta rất gần gũi với thanh âm ngân vang thâm trầm của tiếng chuông; tiếng trống thì lại dồn dập như thôi thúc lòng người...Tại các ngôi chùa, trống Bát Nhã được đánh lên là để cung thỉnh Chư Phật, Chư Bồ Tát quang giáng đạo tràng chứng tri buổi lễ. Thông thường trống Bát Nhã được đánh lên vào ngày lễ Sám hối và trong những ngày Đại lễ. Ba hồi chuông trống Bát Nhã trổi lên để cung thỉnh Chư Phật và cung đón Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni quang giáng đạo tràng, đồng thời cũng nhắc nhở mọi người nên lắng lòng, buông bỏ mọi tạp niệm. Bà kệ trống Bát Nhã được đọc như sau: Bát Nhã hội Bát Nhã hội Bát Nhã hội Thỉnh Phật thượng đường Đại chúng đồng văn Bát Nhã âm Phổ nguyện pháp giới Đẳng hữu tình Nhập Bát Nhã Ba La Mật môn Ba La Mật môn Ba La Mật môn.
05/08/2021(Xem: 6510)
Trước đây Tôi không hề nghĩ rằng: “mình sẽ có ngày trình pháp với Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng sau mỗi bài pháp thoại của Ngài”, dù cho tôi không mang một tư tưởng phân biệt Nam Tông và Bắc Tông, nhưng có lẽ tri thức tôi có rất nhiều sai lầm và vướng mắc do không tiếp xúc nhiều với các đạo tràng, mà chỉ quẩn quanh đọc kinh sách và chỉ là cái túi đựng sách! Có ngờ đâu đại dịch của thế kỷ 21 bắt đầu....theo như đa số mọi người lầm tưởng (trong đó có tôi) ....chỉ là cơn bão thoáng qua, không ngờ đã diễn biến càng ngày càng trầm trọng. Và với lòng từ bi, TT Giảng Sư đã tổ chức các buổi nghe pháp thoại online và ...với thì giờ nhàn rỗi trong những ngày bị lockdown, tôi đã chăm chú nghe từ một vài lần trong tuần sau đó, đổi thành liên tục mỗi ngày và bắt đầu nghiện ... khi thiếu vắng mỗi khi Giảng Sư có Phật Sự bên ngoài ...
02/08/2021(Xem: 18795)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]