Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn độc đáo của Lưỡng Quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi

24/07/201906:38(Xem: 12425)
Điếu văn độc đáo của Lưỡng Quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi
Mạc Đỉnh Chi, một con người có dáng dung không được đẹp lắm, nhưng bù lại ông rất mực tài hoa đức độ. Có một số người tài “sinh bất phùng thời”, nhưng Mạc Đỉnh Chi thì rất may mắn, ông sinh ra và trưởng thành vào thời vua Trần Anh Tông, là một trong năm vị vua Trần sau khi truyền ngôi cho con đều lên Yên Tử tu thiền và trở thành Thiền sư thuyết pháp hoá độ chúng sanh

Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi lấy 44 người đổ Thái Học Sinh ( Tiến Sĩ ), Mạc Đỉnh Chi đổ đầu, chiếm ngôi vị Trạng Nguyên. Ông được bổ nhiệm giữ việc coi sóc thư khố của nhà vua rồi đến chức Tả Bộc Xạ ( Thượng Thư ). Ông có hai lần đi sứ Trung Quốc. Trong hai lần đi sứ này, bằng tài năng ứng đối đề thơ và phẩm chất thông minh của mình khiến cho vua quan nhà Nguyên hết sức khâm phục.


Mac Dinh Chi
Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi

 
Những giai thoại về tài ứng đối và đề thơ của Mạc Đỉnh Chi trong hai lần đi sứ này là những câu chuyện rất hấp dẫn khiến cho người đời sau cũng phải nức lòng ngợi khen một con người thông minh xuất chúng.

Năm 1308, Mạc Đỉnh Chi đi sứ Trung Hoa ( vào thời nhà Nguyên ). Đến cửa khẩu quá muộn, quân Nguyên canh gác bắt ông và mọi người tháp tùng phải chờ đến sáng hôm sau mới được phép qua cửa khẩu. Thấy sứ bộ Đại Việt cứ khiếu nại biện bạch mãi, viên quan phụ trách canh cửa ải thả từ trên lầu cao xuống một câu đối, thách thức sứ bộ Đại Việt nếu đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối như sau:

“Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”

(Tới cửa ải trễ, cửa ải đóng, mời khách qua đường cứ qua)

Một vế đối hóc búa có 4 chữ quan và 3 chữ quá. Mạc Đỉnh Chi thấy rất khó, ông bèn dùng mẹo để đối như sau:

“Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”

(Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời tiên sinh đối trước)

Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên đã làm hài lòng viên quan ấy, Mạc Đỉnh Chi tưởng lâm vào thế bí hoá ra lại tìm được vế đối hay, khiến cho người Nguyên phải phục tài và liền mở cửa cho đoàn sứ bộ của Mạc Đỉnh Chi qua biên giới.

Tới Kinh Đô, Mạc Đỉnh Chi được mời vào tiếp kiến với Hoàng Đế nhà Nguyên. Vua Nguyên đọc một câu đối đòi ông phải đối lại:

“Nhật : Hoả; Vân : Yên; bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ”

(Mặt trời là lửa; mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng)

Mạc Đỉnh Chi hiểu rõ thâm ý tỏ vẻ kiêu ngạo của một nước lớn và cả mục đích đe doạ của vua Nguyên. Mạc Đỉnh Chi đã ứng khẩu đọc :

“Nguyệt : Cung; Tinh : Đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô”

(Trăng là cung; sao là tên; chiều tối bắn rơi mặt trời)

Vế đối của ông rất chuẩn, nói lên được chí khí của người dân nước Việt, không run sợ mà sẵn sàng đối mặt để giữ gìn bờ cõi giang sơn tổ quốc.

Một lần khác, Mạc Đỉnh Chi cùng với sứ thần một số nước ra mắt vua Nguyên. Nhân lúc có một nước nào đó dâng lên một chiếc quạt, vua Nguyên liền bắt sứ thần Đại Việt và sứ thần Triều Tiên đề thơ. Trong lúc Mạc Đỉnh Chi đang tìm tứ thơ thì sứ Triều Tiên đã tìm ra ý và viết rất nhanh. Mạc Đỉnh Chi liếc nhìn 2 câu thơ của sứ Triều Tiên viết bằng chữ Hán, dịch nghĩa như sau:

“Nóng nực oi ả, thì như Y Doãn, Chu Công ( là những người được vua tin dùng)

Rét buốt lạnh lùng thì như Bá Di, Thúc Tề…” ( là những nguời bị ruồng bỏ)

Từ ý hai câu thơ trong bài thơ đang viết dở của sứ giả Triều Tiên, Mạc Đỉnh Chi liền phát triển nhanh hoàn thành một bài thơ rất xuất sắc mô tả chiếc quạt:

“Lưu kim thước thạch, thiên vị địa lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho.
Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu.
Y ! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù.”


Dịch nghĩa:

Chảy vàng, tan đá, trời đất như lò; ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho.
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo.
Ôi ! Được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru ! 


Bài của Mạc Đỉnh Chi làm xong trước, ý sắc são, văn lại hay, cho nên vua Nguyên vừa xem vừa gật gù tấm tắc khen mãi. Cảm phục trước tài đức của Mạc Đỉnh Chi, Vua Nguyên chính tay mình viết vào tờ sắc phong Lưỡng Quốc Trạng Nguyên cho ông.

Và cũng trong một lần đi sứ, Mạc Đỉnh Chi sang sứ đúng vào dịp người hậu phi của vua Nguyên mất, người Nguyên đưa cho Chánh sứ An Nam bài điếu văn viết sẵn bảo đọc. Khi Mạc Đỉnh Chi mở giấy ra thì chỉ thấy viết có 4 chữ “Nhất” (là một). Ông chẳng hề lúng túng, ông bình tỉnh suy nghĩ rất nhanh, rồi đọc thành bài điếu văn đầy đủ như sau:

Thanh thiên nhất đoá vân
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.”


( Dịch nghĩa: Một đám mây giữa trời xanh,

Một bông hoa tuyết trong lò lửa
Một đoá hoa nơi vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước hồ
Ô hô ! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết)


Bài điếu văn độc đáo trên đã làm cho vua Nguyên rất cảm kích xúc động, ngộ ra cái lẻ vô thường của Đạo Phật, mọi sự không thể vạn tuế, vạn vạn tuế như lời chúc tụng của muôn dân, mà phải tuân theo cái nghịch lý khắc nghiệt biến hoại vô thường không trừ một ai. Hiểu được cái lẻ vô sinh bất diệt đó, con người sẽ trở nên hướng thiện, biết trân quý từng giây phút để sống có ích cho cuộc đời này mà không so đo lời lỗ thiệt hơn, như con ong hút mật rất nhẹ nhàng có ý thức, không làm đau bông hoa, vô tư miệt mài dâng cho đời mật ngọt, giống như cuộc đời ông đã hiến dâng hết tài hoa cho đất nước.

Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi được sinh ra trong đời nhà Trần, một triều đại Đạo Phật cực thịnh, bài điếu văn trên có thể nói lên được phẩm chất Đạo Phật dạt dào trong con người ông. Vì vậy ông sống rất liêm khiết và thanh bạch, tuy làm quan to nhưng vẫn nghèo.Vua Trần Minh Tông biết rõ gia cảnh của ông bèn sai người lúc nửa đêm bỏ 10 quan tiền trước nhà ông, khi thức dậy ông cầm số tiền đó vào triều tâu vua, vua cười bảo :”Không ai đến nhận, khanh cầm lấy mà tiêu”

Thơ phú của Mạc Đỉnh Chi để lại đã mai một đi nhiều, người đời sau chỉ còn giữ lại được một tập sách : “Ngọc tĩnh liên phú” và 4 bài thơ đăng ở Việt Âm thi tập và Toàn Việt thi lục. Dù không nhiều nhưng tất cả còn lại đó là những bài thơ phú rất đặc sắc phô diễn được tài năng văn chương của một vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên.

Như những vị quan khác, khi về nghỉ hưu, ông cũng mở trường dạy học cho con em, Ở vào một cương vị mới, đó là người thầy, một cái nghề mà có lẻ ông yêu quý hơn bao giờ hết, bởi vì ông đã hoàn thành xuất sắc cái nhiệm vụ cao cả tổ quốc giao phó và ông cũng đã cống hiến hết mình tài năng đức độ cho đất nước, phần đời còn lại không gì vui hơn là mở trường dạy học cho con em quê hương. Những người học trò của ông dù có phiêu bạt tới phương trời nào cũng không quên bài học ông dạy từ một bài điếu văn gồm bốn chữ “Nhất” và những câu chuyện ứng đối trong những lần đi sứ, đó là những bài học thực tiển sinh động nhất để ông truyền thừa những gì tinh hoa nhất của ông cho những đứa học trò yêu thương.

Và những người học trò ưu tú của ông đã cẩn thận chép lại những bài học quý báu ấy vào sách vở lưu giữ lai để cho những người đời sau như chúng tôi may mắn còn được đọc những câu chuyện về vị Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi tài năng đức độ. Đặc biệt là bài Điếu văn có bốn chữ “Nhất” của ông đã ăn sâu vào trong tâm thức nhiều người như một ly trà Lipton uống vào buổi sáng khiến ta tỉnh thức nhờ bốn chữ “Nhất”. Ai cũng luôn nỗ lực phấn đấu để đạt được nhiều chữ “Nhất” trong công việc, đó là sự cống hiến hết mình như mặt trời chiếu hết ánh sáng cho đời không tính toán lỗ lời từ hàng triệu triệu năm nay. Nhưng chúng ta phải chấp nhận một sự thật đó là cái quy luật khắt khe của tạo hoá : “Ô hô ! Vân tán , tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết.”, để rồi chúng ta dễ dàng sống vui vẻ thảnh thơi rộng lượng hơn và khi vô thường gọi sẵn sàng buông bỏ mọi chữ “Nhất” cho dòng nước lũ cuốn trôi về biển Đông.

Cuộc sống mới vẫn tiếp diễn, cái cũ đã qua đi, nhưng những câu chuyện cũ thì vẫn còn mãi trong lòng người đời sau nhắc nhở. Tôi xin được phép kết thúc bài viết này bằng một câu thơ cổ: “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử/ Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” (Xưa nay bất tử mấy người?/ Lòng son để lại rạng ngời sử xanh).



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/07/2024(Xem: 952)
Với truyền thống từ ngàn xưa “Khi đến tuổi trưởng thành phải dựng vợ, gả chồng”, phải “yên bề gia thất” mới được xem là một người có đời sống hoàn hảo, trọn vẹn, và dường như tư tưởng đó vẫn tồn tại đến tận ngày nay, dù xã hội đã được xem là văn minh tiến bộ, tư tưởng con người đã được khai phóng đi rất nhiều so với những thập niên về trước nhưng ẩn sâu đâu đó, trong suy nghĩ nhiều người vẫn giữ quan điểm không ủng hộ, thậm chí một người còn bị xem là dị biệt nếu chọn đời sống độc thân, không lập gia đình. Có người còn cho rằng khi không có vợ chồng con cái thì người đó không thể được xem là người có đời sống thật sự hạnh phúc.
22/07/2024(Xem: 859)
Bão bùng mưa gió rồi cũng qua đi, giọt xí thoát ra khỏi mọi hệ lụy của hình tướng ở thế gian này, không còn ràng buộc bởi bất cứ sự dụ hoặc nào. Giọt Xí sung sướng ngao du khắp mười phương, không chỗ nào là không có mặt, có mặt khắp mọi nơi mà như thể không hề có mặt. Giọt Xí ung dung tự tại trong trời đất, núi rừng, sông hồ, biển khơi, đô thành, tiểu trấn, đồng quê kể cả ở sa mạc hoang vu, tha ma mộ địa…
22/07/2024(Xem: 2443)
“Lo hoán cốt”. Lo nghĩa là chăm lo. Hoán nghĩa là làm thay đổi. Cốt là xương. Lo làm thay đổi xương cốt của mình. Xương cốt của mình là xương cốt của nghiệp. Bởi thân mình là thân nghiệp. Vì vậy tham dự khóa học, hằng ngày hằng giờ hằng phút hằng giây mình tu tập tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, sám hối, nghe pháp, công phu công quả làm các việc lành là nhằm để chuyển hóa xương cốt của thân nghiệp của mình để cho thân của mình mỗi ngày mỗi nhẹ mỗi giờ mỗi nhẹ, mỗi phút mỗi nhẹ mỗi giây mỗi nhẹ.
15/07/2024(Xem: 4798)
Ba Mươi Năm vun bồi ngôi nhà Tâm Linh Phước Huệ Hạt giống Phật tưới tẩm thương yêu hiểu biết đơm hoa Chữ Duyên trong đạo Phật thật thâm trầm áo nghĩa, đất Thục-quỳnh-mai, nơi Đạo Tràng Phước Huệ thành lập và sinh hoạt đến nay đã tròn Ba Mươi Năm, cũng từ chữ “duyên” đó. Khởi đi là, vào một ngày đẹp trời đầu tháng 8, năm 1994, Thầy Tâm Ngoạn lái xe từ Seattle về Los Angles, mời chúng tôi lên xe, cùng Thầy thăm viếng miền Tây Bắc Hoa Kỳ vì, trước đây đã ba lần, mỗi lần về LA, Thầy rất chân thành mời chúng tôi đến Seattle lập chùa, nhưng, chúng tôi đều một mực từ chối
30/06/2024(Xem: 3889)
Trúc Lâm Đầu Đà, Ngài tên thật là Trần Khâm. Sinh năm 1258, lên ngôi năm 1278, ở ngôi 15 năm từ 1278 đến 1293, nhường ngôi cho con lên làm Thượng hoàng 6 năm từ 1293 đến 1299, sau đó ngài đi tu 9 năm từ năm 1299 đến năm 1308. Năm 1308 ngài viên tịch. Trụ thế 50 tuổi Tây, 51 tuổiTa. Đó là cuộc đời của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là anh hùng dân tộc, là một bậc minh quân, là vị tổ khai sáng ra dòng thiền Việt Nam. Hồi Thứ Nhất:
30/06/2024(Xem: 914)
Hôm nay, chúng con lại có duyên lành đến cúng dường Tăng an cư tại trú xứ Tăng Già lam-Quảng Hương, Phật lịch 2568, thấy chư Tôn đức Tăng hiện tiền hòa hợp thanh tịnh; nhưng nhìn lên Hương thất, thấy Tôn dung Trí Quang Thượng nhân không còn mà vẫn còn phảng phất hương thơm; nhìn kỹ trong đại chúng, không thấy hình ảnh từ hòa, đôn hậu của Hòa thượng Thích Đức Chơn, người mà mới ngày nào đó dạy dỗ chúng con và cùng chúng con đi Canada dự lễ về nguồn tại chùa Phổ Đà Sơn của Hòa thượng Thích Bổn Đạt và lại cũng không thấy bóng dáng Hòa thượng Thanh Huyền đang ở nơi đâu, giữa cõi đời “Không không sắc sắc” này. Nhìn vào Thị ngạn am, bậc Thượng sĩ đã “Thiên lý độc hành”, chỉ thoáng thấy bóng dáng hao gầy và nghe tiếng đàn Dương cầm hay Piano từ tâm thức kính thương của chúng con vọng lại
29/06/2024(Xem: 2661)
Những tháng đầu năm 2021, Út Bình bên Mỹ vẫn thường âm thầm theo dõi Facebook của tôi, thấy biết tôi đang tích cực phụng sự Đạo pháp, theo chư Tăng lên các chùa ở sâu vùng xa để chụp ảnh, viết bài, đưa tin đến các trang Phật giáo trong và ngoài nước, liền nhắn tin tặng tôi chiếc laptop của Út còn cất trong tủ ở nhà từ đường. Ý của em là tiếp sức cho tôi có phương tiện hiện đại hơn để truyền tin tại chỗ, chứ đi dự lễ các chùa trên vùng núi cả buổi, chiều về mới ngồi vào máy tính viết tin bài, chọn ảnh để gửi đi thì chậm quá
27/06/2024(Xem: 2928)
Phát hành vào tháng 7 năm 2024 Nhân Kỷ Niệm 45 Năm Thành Lập Chùa Viên Giác Đức Quốc và 45 Năm Xuất Bản Báo Viên Giác, Viên Giác Tùng Thư Đức Quốc ấn hành Đặc San Văn Hóa Phật Giáo chủ đề "Người Cư Sĩ Phật Giáo" để chào mừng những sự kiện nêu trên. Đặc San năm 2024 này (lần thứ sáu) được sự góp mặt của 50 văn thi sĩ và 4 họa sĩ, nhiếp ảnh gia trong và ngoài nước. Sách in màu, 658 trang, khổ 6x9 inches.
24/06/2024(Xem: 1025)
Đến, vào rồi ra khỏi trên 100 ngôi già lam thánh chúng trong tỉnh, tôi đều gặp thuận duyên. Thuận, có nhiều kiểu thuận khác nhau. Nếu đến các ngôi chùa mình đã từng thường lui tới, xem là "chùa nhà" (như Hải Ấn Ni Tự, Kỳ Viên Trung Nghĩa, Sắc Tứ Kim Sơn...) thì đương nhiên là quá thuận rồi. Đến các ngôi chùa với tờ giấy giới thiệu của Ban Trị Sự Tỉnh Giáo Hội, tờ giấy có con dấu đỏ như giấy thông hành, như "bùa hộ mệnh", khi trình ra là được đón tiếp cho dù là niềm nở và cởi mở hay thận trọng và nghi ngại, thì rốt cuộc cũng là được thuận lợi, nhiệm vụ hoàn thành. Đến những ngôi chùa được các vị trụ trì có nhã ý mời tham dự lễ lạt thì dĩ nhiên không có gì là chướng ngại, là rào cản. Có nhiều chùa tôi thuận duyên đến mà không được gặp vị trụ trì, phải lần thứ hai, thứ ba mới được yết kiến, nhưng đó cũng là thuận, là chưa đúng thời điểm, chưa hội đủ duyên lành chứ không phải nghịch duyên, chướng duyên.
22/06/2024(Xem: 2231)
Có nhiều người khi sinh con ra, bên cạnh tên thật hay, thường có một tên khác gọi ở nhà dí dỏm dễ thương, hay tên thật dở để khỏi bị “bà” bắt. Bà ở đây là bà nào không ai biết được, thế nhưng nhiều người vẫn sợ rồi kiêng. Riêng đối với bà Thịnh, bà không tin như thế, ngược lại, bà cần con cháu bà tên thật hay, phải có ý nghĩa nữa để đem may mắn vận vào cuộc đời nó.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]