Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

26/02/201920:22(Xem: 4139)
Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

 

 

 tam nhien

 

Lăng Già Tâm, Tâm Nhiên cùng uống trà trong liêu vắng chùa Phi Lai, Biên Hòa, đêm tháng 2. 2019

 

 

 

  

 LĂNG GIÀ TÂM
TRẦM MẶC TRĂNG NGÀN

 

 

Thơ là tiếng hát ngàn năm, thâm thiết, miên man trong tâm hồn nhân thế, còn mãi đồng vọng, âm vang cao vút tận trời mây lẫn trong sương gió, nắng mưa giữa mùa trăng ngời xanh biếc huyền mộng. Trăng là hơi thở sơ nguyên của vũ trụ, hòa quyện thiết tha, nuôi dưỡng lòng người muôn thuở, là nguồn cảm hứng muôn nơi cho biết bao thiền sư, thi nhân, nghệ sỹ đi về trên cung bậc sáng tạo, khơi mở dòng đời :

 

Trời mênh mông đất mênh mông

Ta ngồi ngoảnh lại chiều đông qua rồi

Xuân về khoe sắc nơi nơi

Nghe trong cổ lục tàng khơi trăng vàng

 

Xuân là Tâm xuân, đất trời mới mẻ, tinh khôi trong lòng mình. Trăng vàng chiếu ra từ những trang cổ lục, cảo thơm, là hình ảnh ánh trăng tuệ giác siêu việt của nhân loại đã kết tinh từ thiên vạn cổ đến nay. Đó là vầng trăng Đức Phật, trăng Long Thọ, trăng Bồ Đề Đạt Ma, trăng Huệ Năng, trăng Lâm Tế, trăng Tuệ Trung Thượng Sỹ, trăng Không Lộ, trăng Huyền Giác… vẫn sáng ngời ngời, soi bước cho biết bao con người vượt qua bóng đêm dài sinh tử…Phải chăng, đó cũng là “Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn” mà nhà thơ Lăng Già Tâm cảm nhận, khi chiêm ngưỡng vầng trăng Tâm xuân giữa canh trường khuya vắng :

 

Trăng vô biên trăng hiện tiền

Nước trong trăng hiện ưu phiền lãng du

Nghiêng tay nhẹ vén mây mù

Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn

 

Dặm ngàn thiên thu trên từng bước như thị về, bàng bạc ánh trăng thi ca lãng đãng, trông thật thanh thản, an nhiên, muôn chiều phiêu hốt. Còn gì hân hoan hơn, khi bất ngờ thấy ra nguồn cội, bản lai diện mục của mình, dưới ánh vàng trăng tỏa bừng quang đãng : 

 

Nghe trong tự tánh âm vang

Cô luân nguyệt tỏa ánh vàng lung linh

Trăng soi mặt mũi chơn hình

Ngàn thu trăng chở vô thinh cội nguồn

 

Tự tánh thanh tịnh vốn sẵn hiện hữu tự bao giờ, luôn luôn có mặt sờ sờ ngay trước mắt đó. Thấy là thấy lập tức, diệu dụng ngay giữa thực tại hiện tiền (kiến tánh) còn không thấy thì cứ quờ quạng, lần mò trong xó xỉnh tối tăm, lẩn quẩn chung quanh cái ngã chấp thâm căn cố đế của mình (vô minh)mà thôi.

 

Từ khi “Nghe trong tự tánh âm vang” nhà thơ Lăng Già Tâm trầm nhiên thõng tay vào phố chợ Biên Hòa, vào ra ngôi chùa cũ, trà đạo cùng tao nhân, mặc khách, tùy duyên Chuyển Hóa* cõi người ta. Ra Phú Yên, về chốn miền thôn dã Hòa Thịnh, thinh lặng ngắm trăng rằm mát rượi, thoảng ngát hương đồng cỏ nội, tịch chiếu quanh vườn cổ tự Phi Lai. Lên núi rừng cao nguyên Đăk Lăk dạo chơi với hoang vu, thác đổ, sương mù. Rồi xuống biển Quy Nhơn, thả hồn thơ ngút ngàn bay theo mây trắng :

 

Chùa thiêng ngời im lặng

Chuông khuya vang tiếng không

Trăng xưa vờn biển mộng

Ta về trong mênh mông

 

Biển mộng vờn trăng xưa, long lanh lấp lánh màu vạn đại trước mông mênh đại hải, thấp thoáng bóng ta về, là hình ảnh “cô thân vạn lý du” của Lăng Già Tâm, một nhà sư tự tại, một nhà thơ an nhiên, đang cùng thiên địa Giao Cảm** trong một niềm trăng hằng cửu, chơn thường, bát ngát suối nguồn thương :

 

Trăng chơn thường

Trời mờ sương

Đời còn vương

Vạn tình thương

 

Trăng lung linh

Mắt lung linh

Nhập trang kinh

Vang bình minh

 

Tinh sương, sớm mai hồng lộng nắng vàng óng ánh, xanh biếc cỏ hoa trôi quanh gành đá, tuôn trào rào rạt xuống nguồn suối thương yêu, chảy tràn lan lai láng, bồi hồi. Suối nguồn yêu thương chan chứa giữa đại bi tâm, cuồn cuộn, róc rách reo ca theo dòng nước trong đục dung thông :

 

Rồi một sớm mai hồng

Đất trời bỗng sáng trong

Dòng suối ven bờ cỏ

Niềm vui rộn trong lòng

 

Thong dong là niềm vui mừng rỗng rang bừng dậy, để nụ cười bất tuyệt trổ mãi ngàn hoa lá trên đường về cố quận, nơi vườn Tâm ấm áp, chạm hồn trăng Chân Như ở đây và bây giờ, ngay trong từng hơi thở lạc an :

 

Sóng xao bờ cát

Trăng tỏ lối về

Vườn tâm sáng rạng đường quê

Trời Chân Như ấy bây giờ là đây

 

Vườn Lòng xưađã quy hồi, đã về đã tới thảnh thơi. Thi nhân trút sach hết bụi sầu vạn cổ, buông xuống chập chùng, nặng trĩu bao nỗi khổ, niềm đau, sau nghìn dặm lữ làm phong trần khách, lang thang từ vô lượng kiếp, chìm nổi, thăng trầm, chết đi sống lại giữa cuồng phong, sấm sét, ba đào :

 

Phong trần một kiếp lao đao

Nửa vành trăng khuyết biết bao nhiêu tình

Hỏi cây cây mãi lặng thinh

Hỏi mây mây cứ lênh đênh cuối trời

Đá mòn nhưng dạ chẳng rời

Tào Khê nước chảy sáng ngời Chân kinh

Chiều nay dừng bước phiêu linh

Bên con dốc đá tự tình rong rêu

 

Phiêu linh dừng gót bên dòng suối Tào Khê, bước lên thuyền Bát nhã, lắng nghe Huệ Năng thuyết Chân kinh: “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là Vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính. Đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh Vô niệm”. Mỉm cười, thi nhân nhận biết, thẩm thấu sâu xa và thực hành cái tâm không dính măc, kẹt vướng, một cách nhanh chóng :

 

Không vương không lụy ngoài trong

Vượt sinh tử mộng thoát vòng nhiêu khê

Qua rồi bể khổ sông mê

Thuyền neo bến giác đề huề gió trăng

 

Trăng gió vẫn đề huề trên đường thơ Lăng Già Tâm, thi nhân vẫn cất bước thung dung, thõng tay vào chốn bụi hồng :

 

Ta bà nặng gánh có không

Con thuyền Bát nhã thong dong lối về

Người đi rạng nét chân quê

Lời kinh vô tự đề huề gió trăng

Mai này trong cõi cô tung

Lắng nghe tiếng hát từ vùng Nguyên xuân

Có không nào để phân trần

Đến đi rồi cũng một lần ai ơi !

Trăng khuya chếch bóng mộng vời

Con đường sinh tử như lời ca dao

Trăm năm tiếng hát câu chào

Ngàn năm còn lại lời nào cho ta ?

 

Trăm năm là một kiếp người trong cõi ta bà, với đủ thứ mặn nồng, chua chát, đủ thứ ngọt bùi, cay đắng, lặng buốt tâm can, lòng dạ não nùng. Rồi ngàn năm vời vợi trong cõi vô cùng, vô tận kia, có còn gì nữa không, hỡi trời cao, biển rộng ? Nhà thơ tự hỏi rồi tự đáp, khi ngồi quán chiếu, xuyên suốt tam thế mộng, khắp mười phương, tám hướng, bốn bề :

 

Tâm nhiên rộn bước đường quê

Tâm Không là chính nẻo về trong ta

Tâm bình ấy bản trường ca

Tâm hòa nhẹ quyện thiết tha ru lời

Ai ơi ! Nhớ lấy nụ cười

Để thiên thu mãi sáng ngời Chân kinh

 

Chân kinh vô tự vốn không chữ mà đại thi hào Nguyễn Du đã đọc được nên phát biểu: “Khắp cõi là Không tánh thì đâu có tướng. Tâm này vốn thường định chẳng lìa thiền”. Thiên thu nụ cười chỉ có thể bừng nở rực rỡ, từ trên nền tảng tuyệt trần Chân Như tự tánh hay Pháp thân thường trụ mà thôi. Thấy như thế, nên nhà thơ Lăng Già Tâm nhập diệu vào bao la, cảnh giới bát ngát vô lượng thọ, vô lượng quang :

 

Dang tay đón ánh mặt trời

Nghe trùng dương gọi nụ cười thinh không

Nghe đồng vọng giữa mênh mông

Tiếng Chân Như hiện muôn trùng Pháp thân

 

Thật vậy,trời đất rộng lớn là do tâm ta lớn rộng, Thiền sư Suzuki đã nói như thế. Chữ tâm là chỉ cho tâm thức con người. Tâm thức quả thật bất khả tư nghì. Muốn nói về tâm, hiểu chữ tâm cho rốt ráo, đầy đủ ý nghĩa, thì không khác gì mình phải đọc lại toàn bộ tam tạng kinh điển, từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Ở đây, chỉ cần mấy câu thơ, thi nhân đã miêu tả cái tâm, cái lòng thênh thang như mây trắng :

 

Kinh vàng tỏa sáng màu trăng

Xuân vàng kết nụ vĩnh hằng trong ta

Sáng nay lòng bỗng bao la

Ý xuân hòa quyện ý ta muôn trùng

 

Thế là, suốt từ đầu đến cuối, cõi thơ Lăng Già Tâm vẫn trầm nhiên đi giữa ngàn trăng xanh biếc. Trăng phiêu bồng trên tuyệt đỉnh Tâm cao rờn tuyết trắng. Trăng lồng lộng dưới biển Lòng sóng vỗ âm vang. Trăng bảng lảng, bàng bạc trên Đường Trở Về*** quê quán cũ. Trăng ru đưa trên cành trúc biếc, lũy tre xanh, thoảng nhẹ hương cau quanh mái chùa làng thơm rơm rạ, trổ rộ vàng ngát hương bông lúa : 

 

Chùa tôi ngự ở giữa làng

Lũy tre ấm áp trăng vàng lung linh

Ai về ghé mái chùa xinh

Tắm trăng giữa tháng thắm tình quê xưa

 

Chùa tôi cõng nắng gánh mưa

Nhường cơm sẻ áo cho vừa lòng nhau

Chùa tôi nhẹ thoảng hương cau

Nhẹ điều thương ghét niệm câu Di Đà

 

Chuông khuya lay động trăng tà

Con chim cánh trắng la đà cõi tâm

Ai về ngọt lịm pháp âm

Ta về tự tánh thậm thâm suối nguồn

 

Muôn trùng giữa cuộc lữ đó đây, du sỹ này đã mấy lần ghé chùa Phi Lai ở Biên Hòa hay ra tận Phú Yên, về Hòa Thịnh viếng thăm Phi Lai cổ tự, như trở về cố quận tâm linh của mình vậy. Ngồi bên cỏ nội hoa ngàn, rót chén trà trên sân thượng, sương đêm lấp lánh ánh trăng sơ huyền thanh bạch, xanh trong. Thong thả, lắng nghe Lăng Già Tâm đọc những vần thơ đạo vị, cũng đủ cho du sỹ vô cùng phúc hạnh giữa bầu không khí mát lành, ở một vùng sâu heo hút cuối nẻo làng quê. Thế rồi, mấy hôm sau, trước khi lên đường, không quên để lại bài thơ : Phú Yên Miền Thôn Dã, kính tặng thi sỹ Lăng Già Tâm, đồng thời cũng là Hòa thượng Thích Thiện Đạo, bậc tôn túc trong chốn Thiền môn. Một vị thầy có tâm hồn phóng khoáng văn nghệ, rất bao dung và nhập thế :

 

Về Phú Yên qua mấy làng thôn xóm

Những cánh đồng sông nước lượn bờ tre

Rồi dừng lại cuối nhịp cầu Bến Củi

Hòa Thịnh đây rộn rã buổi quay về

 

Thơ mộng quá ! Phi Lai ngôi chùa cũ

Đứng cô liêu xanh lặng ngát hương đồng

Lồng lộng gió Tâm Kinh reo tịch mịch

Trăng Lăng Già tỏa rợp ánh mênh mông

 

Nghe chuyển hóa cả trời mây thấy được

Đường trở về cố quận giữa lòng sâu

Chiều phơi phới trổ hoa vườn tâm nội

Lối an nhiên rơi sạch hết bụi sầu

 

Ngồi lại đó cho thơ vào giao cảm

Tận đáy hồn đồng vọng khúc hoan ca

Là như thế viên dung cùng vạn hữu

Cười nhẹ thênh trên nhịp bước chan hòa

 

 

Tâm Nhiên

 

 

* Chuyển Hóa. Tản văn Thích Thiện Đạo. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản. Sài Gòn 2009

 

** Giao Cảm. Thơ Lăng Già Tâm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

*** Đường Trở Về. Tản văn Thích Thiện Đạo. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

Thơ Lăng Già Tâm, trích trong tập thơ Giao Cảm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7738)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3597)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3550)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11634)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4035)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3520)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10940)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6884)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13241)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4408)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]