Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc "Mẹ Hiền", Thi Phẩm của Nguyễn Sĩ Long

12/09/201821:21(Xem: 12921)
Đọc "Mẹ Hiền", Thi Phẩm của Nguyễn Sĩ Long
Me Hien tho cua Nguyen Si Long
Đọc
 : Mẹ Hiền
Thi Phẩm của Nguyễn Sĩ Long

Qua sự giới thiệu của anh Phù Vân tôi hân hạnh được biết Thi hữu Nguyễn Sĩ Long hiện ở Áo, là tác giả thi phẩm: Mẹ Hiền. Xuất bản tháng 6 năm 2018. Và tôi được một bản gởi tặng. Xin có đôi lời cảm nhận sau khi đọc thi phẩm cùng lời vô vàn biết ơn.

Mẹ Hiền, hai tiếng nầy nghe thân thương, êm ái, ngọt ngào biết bao. Nghe mãi không nhàm, nghe hoài không chán.

Bởi chúng ta ai cũng có sự hiện diện của mẹ hiền trong tâm. Mẹ hiền là suối mát, là giọt sương mai tưới tẩm cho hoa lá cỏ cây. Mẹ hiền là nguồn yêu thương đang tuôn chảy bất tận trong huyết quản của chúng ta. Mẹ hiền là hương hoa, đường mật, bánh kẹo, sửa ngọt hiến tặng cho nhu cầu tuổi nhỏ, và hình như kể cả tuổi già nữa.

Có một lần tôi nghe Thầy Nhất Hạnh định nghĩa về mẹ như sau: “Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn....

Trong chúng ta có ai đi xa mà không một lần nhớ mẹ? Nhất là trong hoàn cảnh tha hương nầy. Tuy mỗi người mỗi khác nhưng chung quy đều thể hiện một tấm lòng khao khát được uống no nê tình yêu thương của mẹ. Đối với người Phật tử thì sự thể hiện ấy qua hình ảnh mùa Vu lan Báo hiếu. Là dịp để cho người con được cài lên ngực một bông hồng hiếu hạnh. Để tỏ lòng biết ơn cha mẹ còn hiện tiền, và tưởng niệm đến song thân đã quá vãng. Nhắc nhỡ đến công ơn sanh thành dưỡng dục mà suốt cuộc đời nầy có mấy ai báo đáp cho nổi? Vì ca dao nhân gian thường nói: “Mẹ thương con biển hồ lai láng. Con thương mẹ kể tháng kể ngày”! Nghe thật xót xa lắm phải không? Nhưng thực tế chuyện tình đời là như vậy, biết sao !.

Thi hữu Nguyễn Sĩ Long có lẽ được sinh ra trong “Chiếc nôi Văn hóa tuy cổ xưa nhưng đầy nhân bản, chịu ảnh hưởng và ràng buộc bởi: Tứ đức tam tùng. Công ngôn dung hạnh”.(trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh là câu răn mình). Thế cho nên hoài niệm của anh về mẹ thật khác người, tuy giản dị bình dân, nhưng rất tỉ mỉ nhắc lại những giây phút thần tiên trong đời. Bằng lời ngợi ca về mẹ chân chất mộc mạc nhưng uyên áo vô cùng. Thấm đậm biết bao là tình. Tình thương ấy mãi chảy trong anh như một nguồn suối mát. Cho nên anh luôn cảm nhận và chỉ thấy mẹ là biểu tượng đẹp nhất:- “Mẹ Mãi Là Mùa Xuân”.

Chúng ta hảy bước vào khung trời hoài niệm về mẹ của anh để cùng cảm thông: “Chín tháng cưu mang hai mươi năm nuôi dưỡng. Con ra đời trong tổ ấm tình thương. Ở quanh con không có bốn mùa thay đổi. Chỉ một mùa xuân trên tay mẹ, mảnh vườn”.

Hình ảnh mẹ là mang nặng đẻ đau, nâng niu bú mớm, tần tảo nuôi con. Ngày ngày siêng năng chăm bón những liếp cải vườn cà. Mồ hôi mẹ đã đổ xuống rất nhiều nơi mảnh vườn yêu thương dịu ngọt, thoang thoảng một mùi hương thơm tươi mát của mùa xuân. Anh mang mùa xuân của mẹ ra đi để còn nhớ mãi công đức sanh thành dưỡng dục. Hay mùa xuân của mẹ đã chảy mãi trong anh bằng những giọt yêu thương bắt nguồn từ thời thơ ấu, chỉ cần nhắm mắt để tận hưởng: -“Con nhắm mắt mỗi lần ôm vú mẹ. Nuốt từng dòng sửa ngọt say mê. Mẹ cúi xuống mắt tròn xoe âu yếm. Giọt lệ mừng chảy xuống má tê tê”.

Thử hỏi còn cảm giác nào sung sướng cho bằng “nằm nhắm mắt ôm vú mẹ” để tận hưởng. Chỉ nhớ đến giây phút tận hưởng nầy thôi cũng đủ thấy năng lượng hạnh phúc vô biên của tuổi nhỏ.

Những hoạt cảnh tiếp theo cũng không kém phần trân trọng và yêu dấu muôn đời:- “Mẹ đút cho con từng miếng cơm muổng cháo. Thức suốt đêm khi con sổ mủi nhức đầu. Mẹ đan cho con từng bao tay chiếc áo./ Bên cuộc đời dù trăm nỗi bể dâu.

Sự hy sinh của mẹ thật vô bờ bến. Nếu không nhắc lại những chi tiết cụ thể ấy, mà chỉ bao gồm cụm từ chung chung: “công đức sanh thành dưỡng dục” thì e rằng không mấy ai cảm nhận được tình mẹ sâu sắc!.

Đến công trình giáo dưỡng cũng bắt đầu từ những bài học vỡ lòng. Đơn giản nhưng thiết thực nhất, cần thiết nhất qua tình tự của những người Mẹ Việt Nam:- “Mẹ dạy cho con từng tiếng nói bước đi. Mẹ dạy cho con cầm cây bút chì. Mẹ dạy cho con vòng tay kính cẩn. Cúi đầu chào thưa gởi mỗi lần đi”...

Những làng quê miền Trung là hình ảnh của nương dâu ruộng lúa, của con sông bờ đê, của lủy tre chiều ru gió. Phía sau rặng tre thường nghe văng vẳng tiếng võng đưa giữa trưa hè kỉu kịt, hòa cùng tiếng ru trẻ ầu ơ: “Ru con con théc cho muồi. Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu. Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh...”. Âm thanh ấy nghe một lần là nhớ dù thời gian phôi pha và không gian ngăn cách:

-“Quên sao được những câu hò giọng hát. Rất chan hòa trong giấc ngủ âm thanh. Lời mẹ ru có vị ngọt chất lành. Con khôn lớn vẫn nhớ từng nhịp điệu”...

Dư âm của điệu hò câu hát ấy vẫn còn ghi đậm trong tâm. Vì đây cũng là âm thanh ngọt ngào như tiếng sáo diều muôn thuở, tạo nên hoạt cảnh êm đềm của thôn xóm.

Nhưng cảnh êm đềm ấy chợt biến mất, khi giặc tràn qua xóm làng gây nên cảnh tang tóc:- “Quên sao được xóm làng xưa xơ xác. Ngày đạn bom đêm pháo kích kinh hồn. Mẹ cõng con khắp đường quê tan nát. Xót xa nhìn nhà cháy ở quanh thôn”.

Thảm cảnh lịch sử chiến tranh ấy bây giờ nhắc lại chỉ thêm đau lòng. Nhưng nếu không nhắc lại thì làm sao mà hình dung được tấm lòng của mẹ đối với con trong những lúc tản cư lánh nạn? Trong những ngày đạn lạc bom rơi. Như gà mẹ xòe đôi cánh ra để che chở cho đàn con mổi lúc trời giông gió, hay mỗi lúc có cánh diều bay qua. Người mẹ Việt Nam cũng đã che chở cho đàn con trong những ngày hoạn nạn như thế cho đến ngày... “Im tiếng súng mẹ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng ngờ đâu con mẹ phải ra đi. Đời mẹ chưa vui bây giờ thấp thỏm. Sợ tin buồn sau cánh cửa biệt ly”.

Chiến tranh đã gây biết bao tang thương, đổ vỡ, biệt ly không bao giờ có thể hàn gắn được. Cùng thấy thêm cảnh mẹ già tựa cửa ngóng trông con đang còn ngày đêm ngoài chiến trận... và sau nầy trôi nổi tha hương:

“Con bất hạnh bên dòng đời trôi nổi. Thiếu mẹ hiền như mất cả mùa xuân. Con cúi đầu xin một lòng tạ lỗi. Ngày đầu năm không có một quây quần”.

Sau chiến tranh lại thêm cảnh biệt ly. Nghe sao mà não lòng quá. Ôi thân phận của một nước nhược tiểu. Đã trải qua không biết bao nhiêu cơn phong ba bảo táp đã ập xuống trên mảnh đất Mẹ Việt Nam. Thế nhưng nguồn hy vọng đang réo gọi trong con với lời nguyện cầu mẹ được:...“Sống trăm tuổi bạc đầu nhưng vẫn khỏe. Đợi con về trong khúc khải hoàn ca”...

*

Hoài niệm tiếp theo là quê hương và tuổi trẻ, thời cắp sách đến trường vui với bạn bè thầy cô, thời hoa mộng ấy đẹp như khung trời cũ, bóng em xưa. Đã một thời dìu bước anh đi vào đời. Quê hương của anh có dòng sông Hương êm đềm trôi xuôi chở theo bao huyền thoại đẹp. Những con đường có lá me bay, có hàng phượng vĩ, và có những tà áo trắng tinh khôi của các nữ sinh Đồng Khánh:- “Có những cơn mưa giữa ngày mùa hạ. Lối em về hoa phượng rụng đầy tay”...

Lối em về đẹp não nùng với hai hàng cây bên đường che mát. Trên cao những nhánh phượng trổ bông đỏ cả một gốc trời. Chân bước đi mà ngỡ như trôi theo dòng sông soi bóng nhuộm vẻ đẹp muôn màu. Có rất nhiều điều yêu dấu rồi anh sẽ kể trong “Huế Xưa”:

“... tôi đưa em qua những con đường phượng vĩ và nhãn lồng/ có ao cá có hồ sen nở rực lúc hừng đông/ như thành phố được thắp muôn vàn ngọn nến...”.

Cũng có lúc: “... leo mấy chục bậc thang lên cửa Ngọ Môn/ ngắm Quốc kỳ bay cao trong gió/ ngồi hóng mát những lúc sang hè/ nhìn những hàng cây lắc nhẹ/ bên trời hoa sứ nở/ và thích nhất là đếm những cặp tình nhân/ ngồi kín đáo dưới những bức thành rêu phủ hay bên những gốc cây, bờ hồ, tảng đá (họ hôn nhau mùi mẫn và dễ thương chi lạ !).

Tuổi học trò là tuổi mộng tuổi mơ. Đi lang thang mà không biết đi đâu, đến mà không biết rằng mình đến: -“Huế xưa, tôi đưa em ra ngoài thành qua cửa Đông Ba rẽ trái là đường Đào Duy Từ... đến trường Nguyễn Du để thăm vài người bạn; đôi lúc em muốn dừng trên cầu nhìn xuống Bến Tượng để xem những con đò nằm sát bên nhau thân mật/ rẽ phải là đường Phan Bội Châu/ phía bên ni có tiệm mì Châu Anh, tiệm cháo lòng Vĩnh Phú, tiệm bò tái Đồng Xuân Lâu/ phía bên tê là tiệm mè xửng Song Hỷ nổi tiếng khắp toàn cầu (em hảo ngọt tha hồ mà mang vào lớp học...)

Huế xưa, tôi cùng em qua cầu Gia Hội thẳng xuống Chi Lăng/ ở bên nớ có quán bún bò O Rớt ngon “tản thần” thường húp hết nước trong tô... ngó qua bên tê người ta ngồi chen nhau trong quán Lạc Sơn/ mùi cà phê bay sang tận bên ni đường phố/ muốn qua ngay mà chắc chi còn chổ (làm răng mà bỏ đi cho được, em hỉ?)...

Huế và tôi, hình như có rất nhiều duyên nợ/ chỉ riêng em cũng đủ “tắt thở” đây rồi/ chiều lại chiều chở em tận xa xôi/ qua cầu Vạn Xuân viếng thăm chùa Thiên Mụ/ đứng bên nhau đôi lòng khấn nhủ/ xin ơn trên tác hợp vợ chồng...

Huế xưa, tôi cùng em nhịp bước/ đi bộ qua cầu Trường Tiền/ em thường mặc chiếc áo dài màu trắng/ có thêu tên hai đứa chúng mình/ tay em không rời chiếc nón bài thơ/ ở trong cặp kẹo nougat và ô mai nhiều hơn sách vở...

Huế xưa, vào những ngày lễ lớn/ tôi đưa em qua Dòng Chúa Cứu Thế, Phú Cam hoặc đi lễ chùa Diệu Đế, Từ Đàm/ rồi ngược dốc Nam Giao lên chùa Từ Hiếu/ ngồi dưới hàng thông vi vút sáo chiều/ nghe tiếng chuông ngân và chim hót/ em hát tôi nghe bài ca tuổi ngọc/ âm thanh nồng như hai má em thơm/ tôi còn đưa em đi thăm đền đài lăng tẩm của các vua chúa triều Nguyễn ngày xưa/ và lên đứng trên đồi Vọng Cảnh/ nhìn những ngày nắng cũng như mưa/ dưới dãy Trường Sơn kiêu hảnh/ để thấy dòng sông Hương muôn đời trầm lặng”...

Dòng Hương Giang mơ màng xuôi chảy dưới chân núi Ngự, là biểu tượng của tình cha nghĩa mẹ (như nước trong nguồn chảy ra) vẫn luôn êm đềm theo năm tháng. Cũng là biểu tượng cho Quê hương và Mẹ. Huế xưa có muôn màu muôn vẻ. Có lễ hội nguy nga của các tôn giáo muôn đời kính ngưỡng. Có những ngày Tết Nguyên Đán cho phố phường khoe sắc, phô hương. Có những ngôi trường vang danh một thời, đã trải dài qua bao thế hệ được đào tạo thành người hữu dụng cho Quốc gia Xã hôi. Có những con đường thơ mộng đã dìu nhiều thế hệ đi qua. Có Văn hóa Cung đình trộn lẫn với Văn học Dân gian tạo nên một nền văn minh hòa đồng của dân tộc. Có những loại thực phẩm được chế biến theo lối gia truyền, cho nên sau nầy dầu có đến đâu rồi cũng không sao có đầy đủ hương vị đặc biệt riêng của Huế.

Thế nhưng nghiệt ngã thay Huế xưa cũng có những ngày tang thương biến đổi, đang đổ xuống bởi bom đạn chiến tranh, bởi hận thù phân hóa.

“Huế xưa, mỗi ngày thêm chất đắng/ chiến tranh về rung chuyển nhịp đò đưa/ bên nớ bên ni tay vẫy dần thưa/ em ở lại nhạt nhòa đời son trẻ/ nhịp cầu qua sông gảy đôi tình thơ bé/ mùa hè sang lửa đỏ phủ kinh hoàng/ bồng bế nhau đi rời phố xuôi Nam/ vẫn không khỏi trời tháng tư ác nghiệt/ giả từ em mùi trinh nguyên tinh khiết/ những ngón tay đan cứng nghẹn lời/ ngày tôi đi thương nhớ quá đôi môi/ và ánh mắt như ngàn sao theo đuổi/ làn tóc em làm sao tôi quên nổi/ trôi dịu hiền như sóng nước Hương Giang...”

Tất cả những nguyên liệu vừa ngọt ngào vừa đằm thắm của Huế đã nuôi lớn cuộc đời không phải chỉ là giai đoạn. Mà là mãi mãi ghi khắc trong tâm lòng biết ơn sự sáng tạo của nhiều thế hệ đi qua. Của nhiều bà mẹ không ngớt lo toan, tính toán làm sao cho con mình không thua kém bạn bè. Của chiều dài lịch sử có ngọt bùi có cay đắng trộn lẫn vào nhau. Cho người còn nuôi hy vọng: “qua cơn khổ cực đến ngày thái lai”!

Ngày sinh nhật sáu mươi tuổi, anh ngồi suy nghiệm cuộc đời còn hiện diện đến ngày nay là nhờ nhiều nhân duyên. Những người đã cho anh hình hài vóc dáng, đã nuôi dưỡng lớn khôn, đã dạy dổ nên người đều là những ân nhân tương tác. Được gói ghém trong 55 bài thơ, với 36 tấm hình màu phong cảnh và các bản nhạc được phổ thơ của các thân hữu như bản Mẹ Hiền. Thuyền Em Trên Biển Đông. Sài Gòn Bản Tình Ca Muôn Đời... Cám ơn anh đã đem đến những hương vị ngọt ngào, tươi mát, trong sáng và tinh khôi. Bằng những trang thơ rất dễ thương, và sau cùng thêm lời cảm tạ: -Hôm nay về giữa sáu mươi. Tạ ơn nhân thế tạ đời cưu mang. Quê hương còn lắm cơ hàn. Thơ xin nhận bớt đôi phần đắng cay...

Thi phẩm “Mẹ Hiền” là một tấm lòng rộng mở trang hoài niệm của một đời. Một lời cảm tạ đến tất cả những nhân duyên tác thành. Và xin nhận bớt những bất hạnh của mẹ cha và quê hương dâu biển để tỏ lòng hiếu hạnh. Như những niệm khúc hát lên cho nhân thế chiêm nghiệm lại cuộc đời có tuổi thơ mật ngọt, có chuổi ngày mộng mơ, có hạnh phúc và khổ đau hòa quyện trong tâm thức của những người xa quê hương nhưng mãi mãi hướng về quê mẹ ./-


Đan Hà




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2021(Xem: 4129)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
08/11/2021(Xem: 11665)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 13690)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 7075)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4800)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2580)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3809)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2698)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6777)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 9261)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]