Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thư Gởi Thầy

10/05/201817:11(Xem: 3949)
Thư Gởi Thầy


HT Minh Chau2

Thư Gởi Thầy

  

 

Kính Thầy,

Như vậy là Thầy đã thực sự xa lìa cõi trần ai tục lụy nầy hơn một năm rồi mà hình như trong lòng con vẫn không thấy có sự gì thay đổi hay khác biệt giữa mất và còn cũng như xa với gần, lạ và quen…Bởi thế mà hôm nay con mới có bức thư này xin gởi đến Thầy. Con vẫn thấy như còn mãi đó, trước mắt con, dáng dấp của Thầy với chiếc cà sa màu vàng rực, bờ vai trần và nụ cười thật hiền hòa luôn nở trên môi, làm cho khuôn mặt của Thầy càng thêm rạng rỡ.

Con xin nói rõ hơn, dù Thầy không còn nhưng những gì con đã học được từ Thầy, đã được đọc, được nghe, qua những bài giảng dạy, thuyết pháp, những bài báo, bài viết, bài dịch thuật, qua các công trình đóng góp đồ sộ của Thầy mà Thầy đã được trân trọng vinh danh như là ngài Huyền Trang của nước Việt mình, thì trong lòng con, hình ảnh Thầy vẫn mãi sống động, hiển hiện và không bao giờ mất cả.

Con thực sự gặp Thầy lần đầu tiên là khi con bước chân vào khuôn viên trường Đại Học Vạn Hạnh cách đây cũng đã bốn mươi sáu năm rồi, lúc ấy chỉ là một cô sinh viên nhỏ bé vừa tròn mười tám tuổi. Một cô gái vừa mới lớn và từng theo « tây học » khá lâu với các « xơ », thuộc nằm lòng những bài kinh « Lạy Cha », « Kính Mừng Mẹ Maria » được đọc bằng tiếng Pháp, mà theo như thông lệ ở các trường công giáo thì sáng trưa chiều gì cũng phải đứng thẳng người, nghiêm chỉnh đọc một bài kinh khi vào lớp, trước khi được phép ngồi xuống và bắt đầu việc học. Nhưng khi cô gái ấy về nhà thì vẫn hấp thụ được một nền giáo dục của ông bà cha mẹ dựa trên nền tảng của Phật giáo cũng như đạo thờ cúng tổ tiên truyền thống tự ngàn xưa.

Nhờ ảnh hưởng này mà con đã không bị một nửa tây học kia lôi cuốn, ngược  lại con thao thức tìm kiếm một giá trị tâm linh đích thực. Và con đã tìm thấy điều đó khi bước vào ngôi trường đại học Phật Giáo đầu tiên do chính Thầy đã sáng lập và giữ chức viện trưởng. Quả thật con đã vô cùng may mắn, thuở đó, Thầy đã qui tụ được rất nhiều nhân tài, giáo sư giỏi trong nhiều lãnh vực. Con vẫn còn nhớ, lớp của con, ngoài Thầy đảm nhiệm môn Phật học, còn có các Thầy khác như Thầy Mãn Giác, Thầy Nguyên Tánh, các giáo sư khác như Ngô Trọng Anh, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền…

Tuy cũng đã đọc những sách báo viết về Phật Giáo trước đó, nhưng con chỉ thật sự được học hành nghiêm túc khi con vào Vạn Hạnh và chính Thầy với những bài giảng về Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên đã xây cho con cái nền tảng vững chắc về giáo lý nhà Phật.

Phải nói vào lớp Thầy thì luôn mang một sự trầm tĩnh và lắng đọng, lời Thầy giảng thì nhỏ nhẹ, từ tốn, chậm rãi, không hấp tấp vội vàng lại thường điểm vào đó những nụ cười hiền lành. Một buổi học với Thầy dường như cũng quá nhẹ nhàng êm ả ! Dường như cuộc đời chỉ là một con sông trôi lặng lờ không gợn sóng ! Dường như tâm hồn con người phải là một tờ giấy trắng phau ! Dường như phong ba bão táp có đến cũng sẽ dừng lại trước cửa lớp ! Dường như buớc qua ngưỡng cửa lớp Thầy là bước vào vùng đất của an nhiên tự tại, tất cả phiền não và âu lo, dằn vặt và thao thức phải được bỏ lại đằng sau !

Nhưng Thầy ơi Tuổi trẻ thì nhiều khát vọng nên không tránh được dằn vặt và thao thức ! Chỉ một năm sau thì cái nửa phần tây học kia của con đã thúc giục con ra đi, bỏ ngôi trường, bỏ Thầy, bỏ bạn !

Con đã ra đi nước ngoài như một tên trộm, lẳng lặng, không một lời từ giã Thầy, từ giã bạn.

Như vậy đó con đã rời xa rất nhiều người. Và khi con quay trở về thì nhiều người con đã không thể tìm lại bóng dáng. Nhiều người đã vĩnh viễn ra đi.

Ôi cái tuổi trẻ nhiều nông nỗi và đáng trách !

Nhưng có điều mà Thầy không hề biết là trước khi ra đi, đến những chân trời xa lạ đó, con đã chép tay trọn cuốn Kinh Pháp Cú của Thầy dịch và luôn giữ bên mình. Trải qua  gần năm mươi năm cuốn kinh đem từ thuở đó đã lưu lạc cùng con khắp bốn phương trời. Ngày nay khi dạy dỗ con cháu con vẫn lấy Kinh ấy làm Kinh căn bản phải chép phải học.

Như vậy thì Thầy hiểu vì sao con nói ở đầu thư là đối với con không có sự khác biệt giữa mất và còn. Thầy hiện diện mỗi khi con nhớ đến cuốn Kinh Pháp Cú của một thời tuổi trẻ nông nỗi của con !

 

Cái dòng sông hiền lành lặng lờ như lớp học của Thầy năm xưa lại không là dòng sông đầy bão táp phong ba của đời con mà con thì như chiếc thuyền trôi dạt ngàn nơi, cho đến một ngày nọ, cách đây cũng phải hơn mười lăm năm rồi, bỗng dưng con được diện kiến Thầy khi thực hành công quả nơi chùa Trúc Lâm tại Pháp. Thật bất ngờ, Thầy và con đều ngạc nhiên tột cùng !

- Uả…chị !... Mà sao chị… đi chùa ?!

Quả tình thầy ngạc nhiên đến mức độ không thể ngờ là gặp lại một cô học trò của hơn ba mươi năm về trước tại một ngôi chùa nơi hải ngoại như thế này.

 

Trước câu hỏi của Thầy thì con chỉ có biết bối rối không tìm ra câu trả lời ! Phải chăng cái chất tây học của con đã lộ ra nơi mặt, không thể dấu diếm hay sao mà Thầy cũng phải đặt câu hỏi « Ồ cái cô sinh viên trẻ tuổi nông nỗi ngày nào, giờ đây cũng biết lên chùa  công quả ư ! "

 

Mười mấy năm trôi qua mà con vẫn không quên buổi hội ngộ đầu tiên, và cũng là cuối cùng, duy nhất, ngắn ngủi và bất ngờ này đồng thời suy gẫm về câu hỏi của Thầy và con tin chắc Thầy không có cái suy nghĩ như con tưởng tượng, thêu dệt, câu hỏi của Thầy chính là một Công Án hết sức sâu sắc, không phải chỉ riêng cho con, mà người nào bước chân tới cửa chùa có lẽ cũng nên một lần tự hỏi «  vì sao tôi đi chùa ? »

Hơn thế nữa, câu hỏi của Thầy lại còn là một câu hỏi rất hợp thời đại và hiện đại. Mọi người nói đến «  Văn hóa đi chùa  », kêu gọi « Đi chùa đúng Chánh Pháp » như vậy là vì đã có những hành vi đi chùa thiếu văn hóa và không thực sự đúng như Chánh Pháp.

Nếu mỗi người chịu khó tìm hiểu mình, soi gương mình  trong câu hỏi « Vì sao tôi đi chùa ? » Để thấy rõ mình muốn gì ước gì mong gì cầu gì…có lẽ cũng sẽ đem lại nhiều lợi ích và an lạc cho chính bản thân cũng như cho tha nhân và cho cả Đạo Pháp nữa. Con suy nghĩ như thế không biết có đúng chăng ?

 

Kính Thầy, nhớ lại câu hỏi của Thầy dành cho con mà con cứ ngỡ như Thầy đang ra bài thi cho con năm nào và con phải cặm cụi cắn bút để nộp bài cho Thầy ! Trong phần thực hành thì con nguyện luôn luôn tự nhắc nhở, tự phản tỉnh. Như một thuở nào từng học Văn Tư Tu trong cái lớp học thật trầm tĩnh của Thầy.

 

Bây giờ cho dù cái lớp học đó đã không còn, Thầy cũng không còn nhưng cái gì cần phải nghe, phải suy gẫm và phải thực hành thì vẫn còn và sẽ còn mãi. Con nghĩ Thầy không mong gì hơn điều này.Và điều nầy mới đích thực đem lại cho Thầy nguồn An Lạc. Với những công trình giảng dạy, biên khảo, dịch thuật lớn lao, Thầy đã xây dựng một nền móng thật vững chắc cho việc Văn Tư Tu. Thầy đã hoàn tất những gì cần làm và phải làm. Thầy đã được An Lạc rồi, đang hưởng An Lạc. Hoàn toàn trú ngụ trong An Lạc.

Con nghĩ có một lời chúc gì nữa ở đây và bây giờ cũng là thừa.

 

Kính Thư,

Con, một học trò cũ của Thầy.

Lê Khắc Thanh Hoài.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24518)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9453)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11105)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3618)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5343)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3246)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10612)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3730)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15133)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3492)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]