Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Đi Lưu Mấy Dòng Không

07/03/201719:04(Xem: 11642)
Người Đi Lưu Mấy Dòng Không
 

Người Đi Lưu Mấy Dòng Không

Lần đầu tiên nghe bản nhạc “Hồ Như” của Hoàng Quốc Bảo, tôi có cảm giác như có một tiếng vọng xa xăm xóay vào hồn mình. Chỉ đọc cái tựa đề không thôi mà đã dấy lên sự mông lung, hư hư thực thực. Những con chữ thênh thoang, âm điệu êm dịu khiến tôi thắc mắc và tìm hiểu thêm về dòng nhạc của ông.  Một nhà văn gọi dòng nhạc của ông với ba chữ”Khúc Vô Thanh”.  Còn tôi, chỉ dùng một chữ để diễn tả, đó là dòng nhạc “Không”.
Một chữ “KHÔNG” thôi hàm chứa bao nhiêu cốt lũy của đạo Phật. Hoàng Quốc Bảo đã thấu triệt bản chất cuộc đời –  hư huyễn, giả tạm nên xếp lại những cung mi, cung la và xuất gia tại thiền viện Trúc Lâm. Trong bài Hồ Như, chúng ta thấy rõ nỗi khắc khoải về quá khứ, mơ hồ về thân phận, cuộc đời:
13118hinh-anh-phong-canh-ben-thuyen-tho-mong
Đôi lúc ta buồn hơn bến sông
Đời trôi qua như tiếng muôn trùng
(Hồ Như-Hoàng Quốc Bảo)
Nghệ sĩ thường mẫn cảm,  buồn hơn thế gian buồn.  Hoàng Quốc Bảo  “buồn hơn bến sông” và “buồn hơn cỏ dại”.  Sự mẫn cảm là chất liệu xúc sáng tạo và là lớp bọc giúp người nghệ sĩ tồn tại trong thế giới riêng của mình bởi cuộc đời ngoài kia vốn gai góc.
nguahi
Đôi lúc đường về quê mịt mù
Ngựa hồ như đứng hí thiên thu
(Hồ Như-Hoàng Quốc Bảo)
Hình ảnh ngựa đứng hí thiên thu giữa núi rừng hoang vu, tịch mịch. Dường như đó cũng là hình ảnh những tâm hồn lưu lạc tha hương mõi mắt ngóng về quê cũ, không biết ngày nào mới trở lại.  Tình quê tình nước vẫn chứa chan nhưng quê nhà vẫn xa vời vợi trong tâm tưởng.  Tiếng ngựa hí thiên thu là nỗi khắc khoải trong lòng nhạc sĩ khi nhìn lại đời mình?  Hay phải chăng cũng là tiếng kêu thống thiết của một kiếp nhân sinh?
Có lẽ ta về ai biết đâu
Trồng vàng hoa trên núi sương hào
Có lẽ trăm rừng xanh trở lại
Gọi đàn chim xa mãi phương nào
Có lẽ ta về như giấc mơ
Làm giòng sông bôi xóa đôi bờ
(Hồ Như-Hoàng Quốc Bảo)
Đôi bờ có phải diễn tả hai thế giới nghệ sĩ và tỉnh thức luôn mâu thuẫn nhau?  Những người cùng dòng từ trường thường có cùng sự rung động hoặc giao cảm. Nỗi xâu xé, nỗi chênh vênh giữa hai thế giới khiến tôi đồng cảm sâu xa trong từng lời nhạc của  Hoàng Quốc Bảo. Có lẽ ta xuống cõi chợ, có lẽ ta lên non cao, và “có lẽ ta về ai biết đâu”. Và vì vậy mà đôi khi ta lơ thơ lẩn thẩn, xác đây mà hồn dạt phương nào như mô tả  trong tập thơ Chèo Vỡ Sông Trăng của thiền sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh:
Sống với núi mà hồn chưa hóa núi
Đôi khi lòng thơ thẩn một dòng sông
Muôn trùng chập chờn, muôn trùng mộng mị vòi vĩnh nét bi lụy trong tâm hồn nghệ sĩ. Hồ Như làm tôi liên tưởng đến bản nhạc Concerto De Aranjuez Adagio của Joaquín Rodrigo, một nhà soạn nhạc nổi tiếng bị mù từ năm lên ba tuổi.  Âm điệu  toát lên cái buồn thăm thẳm, nỗi đau khổ chất ngất vì tác giả phải sống cả đời trong trong bóng tối.  Sự huyền diệu của âm thanh, cung bậc trầm bồng diệu vợi in vào tim óc như tiếng chuông gõ  chạm vào vùng tâm thức để bừng lên một trời ký ức.  Đạo níu đời gây bao cảnh se sua. Đời níu đạo sinh nhiều  vênh váo. Đâu nhị nguyên? Đâu hý luận?  Người mê cho mình tỉnh, người tỉnh không biết mình vẫn còn mê. Mê tỉnh, tỉnh mê – vô bến vô  bờ – vô cội vô căn, lăn lóc trong kiếp luân hồi.
Trong khi nhiều người muốn làm cái thước để đo người khác thì Hoàng Quốc Bảo lại muốn làm “con đò chở nhân gian qua”. Một ý tưởng thật nhân bản.
Xin làm con đò chở nhân gian qua
Bờ bến trăm năm, thân chú mịt mù.
(Tịch Mặc Nét Ai Cươi-Hoàng Quốc Bảo)
Đôi khi ta tách mình ra khỏi cõi chợ để hứng chút nhựa sống uyên nguyên của đất trời, để cảm những điều dung dị, để lật lại những trang tâm và để gậm nhấm nỗi cô liêu một cách thú vị chứ không phải đoạ đày. Cô liêu cũng là nhịp cầu hướng đến sự giải thoát nội tâm.
Nghệ sĩ thích sự sáng tạo và đam mê và họ thoát thai sự sáng tạo đam mê đó  bằng nhiều hình thức. Hoàng Quốc Bảo thoát với nốt nhạc, với “vài trang thư rụng xuống đời mang mang”. Tôi cũng thích cuộc phiêu lưu làm ăn mày văn chương để thoát dòng tư tưởng, để tìm về cội nguồn.
Hồn ta – dòng suối mát trong
Mân mê con chữ giữa lòng nhân gian
dochieu
Hoàng Quốc Bảo không chỉ muốn làm con đò chở nhân gian qua, mà còn muốn “làm cội mai vàng nở ngát thiên thu”.  Đó là một người với cái tâm thường tại, tâm không mong không cầu – an nhiên.  Không phải ai cũng có được mà đôi khi đòi hỏi một công án thiền. Với Phạm Công Thiện thì “tiếng chuông vọng luân hồi”, còn Hoàng Quốc Bảo thì “chuông đại hồng xoá oán thù xưa”.  Thật vậy,  thương – ghét mấy rồi tất cả rồi cũng đi qua. Ngàn năm mây trắng bay, vẫn bay!
Âm nhạc có chất trị liệu tinh thần. Vui đi nghe nhạc. Buồn cũng đi nghe nhạc. Dòng nhạc Hoàng Quốc Bảo không chỉ ru hồn mà còn chứa một sự sâu lắng về nhân sinh quan. Chất thiền, sự khai ngộ ẩn hiện trong nỗi khắc khoải.  Có lẽ ông ngộ ra rằng âm nhạc không thể  cứu cánh bờ tâm linh, nên đã rời xa chốn bụi. Mỗi chúng ta có mặt trên cuộc đời này đều có một sứ mệnh. Đôi khi sứ mệnh không là việc đào sông lấp biển, mà có thể rất đơn giản: ban bố một nụ cười,  giúp một ai trong lúc khó khăn, lắng nghe một nỗi lòng.
Nếu mình không thể tử tế với người khác thì ít ra cũng tử tế với chính mình. Tử tế với chính mình là sống thật cho dù trong hỉ, nộ, ái . Có cảm tưởng rằng con người thích sống dùm người khác. Được nhờ sống dùm đã đành, đằng này không được nhờ mà tình nguyện nói dùm, nghĩ dùm, và gào khóc dùm luôn mới siêu đẳng.  Sống tử tế cũng là sống biết tha thứ cho chính mình.  Ngọn lưỡi nhân gian nhọn. Chúng ta hụp lặn, ươm muộn phiền, chồng chấp lớp lớp uẫn, và một lúc nào muốn vứt bỏ hết. Chúng ta vứt vì cảm thấy quá muộn phiền, còn Hoàng Quốc Bảo “vứt dép theo trăng” vì “nhìn thấy cội nguộn”, và  đốn ngộ vô thường.
Thật vậy, không ai cho mình phẩm lượng cuộc sống, và cũng không ai phân định giá trị bản thân mình bằng chính mình.  Đâu nhị nguyên? Đâu hý luận? Tất cả loanh quanh một vòng đối đãi, và cuối cùng như câu thơ trong bài Thơ Khuya của BS Trần Xuân Ninh: ” Vẫy vùng, được mất, thẩy đều không”.  Ở nhạc Hoàng Quốc Bảo, tôi thấy một tư tưởng giải thoát sâu xa thấm nhuần, Hoàng Quốc Bảo đã “nhìn lại bên kia bờ vắng như không”  Người đã vào chốn thiền môn để làm con đò chở nhân gian qua. Tôi vẫn ngồi đây với giọt lắng đọng lật những trang đời đã qua với bao ngậm ngùi. Mùi trầm hương quyện mịt mù không gian.Hoàng Quốc Bảo mạnh mẽ giã từ thế giới nghệ sĩ và chọn cho mình một con đường cao cả, một hạnh nguyện cao vời. Còn tôi, một kẻ tài tử vẫnlăn lóc trong cõi tục lụy:
thiensu
Xoè tay bắt bóng bên cầu
Bóng vờn bay mãi bạc đầu xanh xao
Trầm u quyện giấc chiêm bao
Thềm rêu dõi ngóng non cao tự tình
(Như Huyễn Như Mộng- Lê Diễm Chi Huệ)
Giữa trùng trùng duyên nghiệp, tôi cố nhắc mình lời của thiền sư Trần Nhân Tông  “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”.
trakhuya
Hớp một ngụm trà. Mĩm một nụ cười an nhiên. Mảnh trăng lưỡi liềm hắt tia sáng yếu ớt qua khe hở xuyên qua mành cửa sổ. Sương khuya ngoài kia có lẽ vẫn còn sa giữa không gian bao la của màn đêm tĩnh mịch.
02.09.2017
Lê Diễm Chi Huệ
___________________________________________
Trích dẫn:
-Trần Nhân Tông, Kệ Vân [ xem bản điện tử trong trang nhà  Thivien.net]
-Phạm Công Thiện, Hiu Hắt Quê Hương Bến Cỏ Hồng Phạm Công Thiện [ xem bản điện tử trong trang nhà Phamcongthieng.com]
-Hoàng Quốc Bảo, Hồ Như, Lên Non Quảy Mộng, Tịch Mặc Nét Ai Cười  [ Xem bản điện tử trong trang nhà Lyrics.tkaraoke.com]
-Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Chèo Vỡ Sông Trăng[Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên Huế xuất bản 1993]
-BS. Trần Xuân Ninh, Thơ Khuya [ xem bản điện tử trong trang nhà Lediemchihue.com]
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4442)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13614)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13820)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3170)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11466)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3045)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6309)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4275)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4610)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3272)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]