Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sóng nước

31/03/201519:56(Xem: 6536)
Sóng nước

song_bien

 

 

Thành phố Adelaide, tiểu bang South Australia có một dòng sông nhỏ chảy ngang.                                             

Buổi chiều thảnh thơi. Nắng hanh vàng trên lá. Gió đuổi nhau làm xôn xao ngọn cây phong bên bờ. Những con chim nhỏ rộn ràng, riú rít trên cành. Gió lay động mặt hồ tạo nên những gợn sóng nhỏ nhè nhẹ, nhấp nhô, đuổi theo nhau không dứt khiến trong lòng dâng lên cảm giác êm đềm, thanh thản, bình yên.

 

Nhìn mặt nước sông, lòng mơ hồ, mênh mông …

 

Nước là một trong tứ đại: đất, nước, gió, lửa, luôn có mặt để tạo ra sắc pháp. Tánh của nước là ướt (thấp), dụng là thu nhiếp. Nước cho ta cảm giác sạch sẽ, dễ chịu, gội rửa, tươi mát, thấm nhuận.

 

Nước gợi lên ý niệm mênh mông, bao la của đại dương; chan hòa, tưới tẩm của mưa; bao dung, chan chứa của tình mẹ; êm đềm của đêm trăng trên dòng sông quê hương; âm thầm như mạch nước ngầm trong lòng đất; reo vang của con suối giữa rừng; triền miên, bất tuyệt của hải triều biển cả…

 

Nước tùy thuận, khi ẩn khi hiện, vô hình vô tướng: lúc thì nhẹ nhàng, dịu dàng như lưỡi nước đầu nguồn, khi thì dõng mãnh, cuồng nộ như con sóng thần giữa đại dương; ở thì chọn chỗ thấp trũng, đến khi biến hóa thì lại vượt lên trên cao; lúc cạn thì thu vào, hạ xuống; lúc thừa thì dâng lên, trào ra; tùy hoàn cảnh mà khi chảy khi đọng, lúc động lúc tịnh; tùy theo chỗ chứa đựng mà dài, ngắn, vuông, tròn; lại tùy theo thời tiết âm dương có lúc thì loãng, có khi lại đặc; cứng mà không gãy, mềm nhưng có thể khiến cho “tan đá nát vàng”; lúc nhỏ thì như chén trà trong lòng bàn tay, khi lớn thì bao trùm cả sơn hà đại địa, linh hoạt đến vô cùng.

 

Nước tạo ra sự sống cho mọi loài, lợi ích cho vạn vật. Nơi đâu có nước là có sự sinh tồn. Các nhà khoa học đã chẳng cố gắng tìm ra sự có mặt của H2O trên Hỏa tinh để chứng minh cho sự hiện hữu của sự sống là gì.

 

Đức Lão Tử ví rằng: Bậc Thượng thiện giống như nước, lợi ích vạn vật mà không tranh. Nước thường chảy đến chỗ thấp trũng, chỗ ô uế cho nên gần với đạo. (Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xứ chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo. Đạo Đức Kinh, Chương 8).

 

Nước gợi lên ý niệm thanh tịnh của Bát công đức thủy trong ao Thất bảo ở cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà: trừng tịnh, thanh lãnh, nhuận trạch, cam mỹ, khinh nhuyễn, an hòa, trừ quá hoạn, trưởng dưỡng (lắng sạch, trong mát, nhuần nhuyễn mượt mà, ngon ngọt, nhẹ nhàng, mịn màng, an ổn, hòa hợp, có công năng trừ được đói khát, bệnh tật, phiền não, ô nhiễm và tăng trưởng thiện căn).

 

Ngài Bát-lặc-mật-đế, người mang Kinh Lăng Nghiêm từ Thiên Trúc sang Trung Hoa  truyền bá, có nói rằng: “Nước chảy trên đất bằng vốn chẳng gây tiếng động, nhưng bởi có thác ghềnh cao thấp mà tạo nên âm thanh. Đạo lớn trong pháp giới vốn không lời, nhưng bởi tâm lượng chúng sanh không đồng mà đạo phải thành câu, thành chữ” (Thủy lưu bình địa bổn vô thanh, vị hữu cao đê nhi hữu thanh. Đại đạo vô ngôn chu pháp giới, do tham sân si nhi hữu thanh).

 

Ý niệm và hình ảnh siêu thực của sóng nước bàng bạc trong giáo nghĩa Đại thừa. Trên chuông, mõ, trên kiềng chùy, tràng phang, bảo chúng, trên vành đại cổ, trên miệng hồng chung, trên những bức phù điêu trang nghiêm cổ kính... đều thường có chạm khắc hình ảnh sóng nước (Thủy Ba).

 

Sóng, chỉ cho thế giới hiện tượng. Nước, chỉ cho thế giới bản thể. Sóng và nước, tuy hai mà chẳng phải hai. Chẳng phải hai nhưng là hai. Sóng và nước bản chất chỉ là một nhưng bởi do động hay tịnh mà sinh ra hiện tượng sai khác mà thôi. Cũng vậy, phiền não và bồ đề, tuy một mà chẳng phải một. Chẳng phải một nhưng là một. Phật và chúng sanh vốn đồng một tánh Phật nhưng chỉ vì động hay tịnh mà trở thành chúng sanh hay Phật, nhiễm ô phiền não hay giác ngộ, niết bàn.

 

Hãy nhìn mặt hồ tĩnh lặng như tấm gương, soi thấu mặt trời ban ngày, soi rõ mặt trăng và các vì tinh tú ban đêm, in hình đám mây đang phiêu lưu giang hồ, in dấu bóng cây phong lặng lẽ, soi bóng cành liễu trầm tư, chim muông, hoa lá trong sáng, riêng tư, rành mạch, rõ ràng, không phán xét, không phân biệt, không điều kiện. Nhưng khi có làn gió thổi qua làm mặt hồ gợn những cơn sóng nhẹ nhấp nhô. Tất cả, vâng, tất cả đều vỡ vụn, đều trở nên xáo trộn, mờ mịt, nhạt nhòa. Nào khác chi mặt hồ của tâm, khi vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, thì soi thấu cả tam thiên đại thiên thế giới, mà hễ lúc ngọn gió lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, gió tạp niệm, gió vọng tưởng điên đảo, gió phiền não thổi tới thì mờ mịt nổi trôi trong ba nẻo sáu đường.

 

Hãy quán tưởng giọt nước cam lộ long lanh trên đầu cành dương liễu:

 

Dương chi tịnh thủy                                  (Cành dương nước tịnh

Biến sái tam thiên                                     Rưới khắp ba ngàn

Tánh không bát đức lợi nhơn thiên             Tánh không tám đức lợi trời người

Pháp giới quảng tăng diên                         Pháp giới rộng thênh thang

Diệt tội tiêu khiên                                     Diệt sạch tai nàn

Hỏa diệm hóa hồng liên.                            Lửa dữ hóa sen vàng).                

 

Hãy hình dung hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm đang đứng trên sóng dữ giữa đại dương vô minh, cuồng nộ:

 

Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài                  (Trí tuệ bừng lên đóa biện tài

Đoan cư ba thượng tuyệt trần ai                 Đứng yên trên sóng sạch trần ai

Tường quang thước phá thiên sanh bịnh      Cam lộ chữa lành cơn khổ bịnh

Cam lộ năng tiêu vạn kiếp tai                      Hào quang quét sạch buổi nguy tai

Thúy liễu phất khai kim thế giới                  Liễu biếc phất bày muôn thế giới

Hồng liên dõng xuất ngọc lâu đài                Sen hồng nở hé vạn lâu đài

Ngã kim khể thủ phần hương tán                Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh

Nguyện hướng nhân gian ứng hiện lai.         Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay).

 

Hãy hình dung giọt sương cam lộ trên đầu nhành dương liễu của Bồ Tát, tùy duyên bất biến để hằng thuận chúng sanh:

 

Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt não dĩ giai đắc thanh lương. Tầm thinh cứu khổ ư tứ sanh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo. Bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng. Hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngã tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy.

 

Thị thủy giả phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời xuân phán đông ngưng, khảm lưu cấn chỉ hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ linh phái nan cùng. Bích giáng tàng long hàn đàm tẩm nguyệt. Hoặc tại quân vương long bút hạ tán tác ân ba, hoặc cư Bồ Tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh. (Tổ Thiên Thai Trí Khải Đại sư)

 

(Cầm nhành dương Ngài rưới nước cam lồ lên tất cả, trừ nhiệt não Ngài làm cho mọi người đều được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm. Không có ai cầu mà chẳng ứng, không có nguyện nào mà không thành, cho nên chúng con an trụ trong tịnh quán chí thành tụng lại mật ngôn và gia trì pháp thủy.

 

Tịnh thủy nầy vuông tròn tùy theo bình chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời, mùa xuân thì loãng, mùa đông lại đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mang, nguồn sâu khó lường, chảy mãi thao thao, thật là dòng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá nước ngâm bóng loài rồng, lúc dưới ao thu nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy nầy hoặc đọng dưới ngòi bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân hoặc nằm trên đầu cành dương liễu của vị giác hữu tình để biến thành cam lồ linh diệu, chỉ cần một giọt rưới lên là mười phương được sạch trong).

 

Hãy quán chiếu công năng của giọt nước cam lộ:

 

Phù thử thủy giả, bát công đức thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ lô Hoa tạng giới, cá trung vô xứ bất siêu luân. Thủy bất tẩy thủy diệu cực pháp thân. Trần bất nhiễm trần phản tác tự kỷ. Quyên trừ cấu uế, đản địch đàn tràng. Sái, khô mộc nhi tác đương xuân, khiết uế ban nhi thành Tịnh độ. Sở vị nội ngoại trung gian vô trược uế, thánh phàm u hiển tổng thanh lương.

 

(Luận nước nầy là nước đầy đủ tám công đức xuất phát từ tánh thiên chơn, trước tẩy sạch trần lao nghiệp chướng, đưa chúng sanh vào cảnh giới Tỳ Lô Hoa tạng, khiến cho dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào cũng được siêu thoát khỏi luân hồi sinh tử. Nước chẳng rữa nước cùng cực pháp thân, bụi không dính bụi, chủ tể là mình. Có năng lực quét sạch cấu uế trong ngoài đàn tràng. Khi rưới lên, cây khô bật đâm chồi nẩy lộc như đang mùa xuân, khiến cho thế giới đang khổ đau, uế nhiễm trở thành một thế giới đầy an lạc. Khắp mọi nơi chốn đều trở nên thanh tịnh, thánh nhân hay phàm phu, có mặt hay đã khuất đều được tự tại, giải thoát).

 

Bồ Tát liễu đầu cam lồ thủy                        (Đầu nhành dương liễu vương cam lộ

Năng linh nhất đích biến thập phương        Một giọt mười phương rưới cũng đầy

Tinh chuyên cấu uế tận quyên trừ               Bao nhiêu trần lụy tiêu tan hết

Linh thử đàn tràng tất thanh tịnh .             Đàn  tràng thanh tịnh ở ngay đây).

 

Nhìn mặt nước sông, lòng mơ hồ, mênh mông, mênh mông…      

 

(Ghi chú: Những bài kệ trên đây được trích từ Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp và nội dung hai thời công phu).

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3367)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1474)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 802)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 778)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 994)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1399)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 988)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9166)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 791)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1690)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]