Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

67. Kỷ niệm dưới mái chùa xưa (Chơn Đắc Nguyễn Văn Đồng)

17/06/201408:54(Xem: 20951)
67. Kỷ niệm dưới mái chùa xưa (Chơn Đắc Nguyễn Văn Đồng)

blank
Tôi năm nay thiếu một tuổi (tôi sinh năm Bính Tuất-1946) là bước đến bực thềm mà người xưa gọi là “Cổ Lai Hy”. Với ngần ấy thời gian của đời người, tôi chứng kiến biết bao sự thay đổi trong cuộc sống, thay đổi từ bản thân mình cho đến hoàn cảnh và con người chung quanh. Tuy nhiên, khoảng thời gian gần 20 năm tu học tại chùa Viên Giác, Hội An (1958 đến 1976) là quảng đời đẹp nhất trong tôi. Nơi đây tôi có nhiều kỷ niệm của thuở ấu thơ thời làm điệu cũng như những huynh đệ đồng tu của một giai đoạn gian khổ.

Tôi từ nhỏ được thân phụ đưa về chùa Long Tuyền quy y với Tổ Phổ Thoại nên có pháp danh Chơn Đắc. Ông thân tôi là một người viết chữ Nho rất đẹp, về sau xuất gia với Tổ nên có pháp danh Chơn Tề hiệu Long Niệm và được Tổ cử làm Thư ký của chùa. Chính vì mối quan hệ đồng môn với Thầy tôi (tức cố Hoà Thượng thượng Long hạ Trí) nên năm 1958, khi tròn 13 tuổi thân phụ gởi tôi về chùa Viên Giác tu học với Thầy. Vì tôi quy y 5 giới với Tổ Phổ Thoại nên khi xuống tóc, Thầy vẫn giữ nguyên pháp danh Chơn Đắc. Và sau này các huynh đệ cũng vậy, ai có pháp danh rồi thì Thầy giữ nguyên, chỉ cho Pháp tự hoặc Pháp hiệu mà thôi.

Chùa Viên Giác vốn dĩ là ngôi chùa của làng Cẩm Phô và Thầy mới về đảm nhận trụ trì. Lúc ấy, chùa làm bằng gỗ nên rất thấp, hai bên thờ Thập Điện Diêm Vương, Quan Thánh Đế Quân v.v… tạo nên một không khí âm u huyền bí khiến một đứa trẻ như tôi không phải phát khiếp khi nhìn gương mặt của Tổ Đạt Ma. Thời gian đầu, một Thầy một trò chăm lo việc chùa. Lúc ấy, đời sống người dân rất khó khăn, sự cúng dường của tín đồ không có là bao nên kinh tế nhà chùa tự cung tự cấp. Thầy vừa canh tác mấy sào ruộng rồi còn đi cày thuê đổi công cho các nhà nông khác. Mỗi sáng Thầy làm cho tôi một rổ kẹo ú kẹo mè mang xuống chợ Hội An bán để có thêm kinh tế cho chùa. Có những lúc bán không hết thì mấy bà đạo hữu mua ủng hộ, hoặc có khi tôi cao hứng kẹo ú kẹo mè trộn thêm với “đường cát” thì mấy bà góp tiền ủng hộ từ thiện để có vốn cho ngày mai.

Dần dà vào những năm sau thì chùa mới có người vào tu như bác Hồ Quyên pháp danh Thị Tâm, chú Phạm Ngọc Thứ pháp danh Thị Phẩm, chú Nguyễn Thanh Tùng pháp danh Như Mậu. Trong mùa tranh đấu năm 1963 thì huynh trưởng Lê Thanh Hải xuất gia tại đây, về sau là Hòa Thượng Thích Tâm Thanh, khai sơn tu viện Vĩnh Minh ở Lâm Đồng. Đến năm 1964 thì chú Lê Cưỡng tức thầy Như Điển, chú Phạm Kim Biên pháp danh Như Lượng, rồi các chú Ngô, chú Quang, chú Duy pháp danh Như Giáo, chú C, chú Đức, chú Trai tức Sư Giác Thanh ngày nay v.v… cùng về tu học. Bên cạnh đó chùa còn có các học sinh được Thầy nuôi ăn học như Nhơn, Nhiêu, Hoàng, Sơn, Hùng tức Sư Giác Ánh ở Vĩnh Long ngày nay v.v…

Năm 1965 tôi thọ Sa di tại chùa Long Tuyền được Thầy cho pháp tự Giải Hành và năm 1970 thọ Tỳ kheo tại giới đàn Vĩnh Gia và Thầy cho hiệu là Trí Viên. Tôi tuy là đệ tử đầu tay của Thầy nhưng cái thuở tôi vào chùa thì còn quá nhiều khó khăn, thêm vào đó khả năng tôi hạn chế nên việc học hành không được nhiều. Tuy nhiên, Thầy thường dẫn tôi đi ứng phú nên tôi thừa hưởng được âm diệu tán tụng của Thầy. Vì thế ở chùa, tôi lo việc nhang đăng cũng như chủ trì các đám lễ mỗi khi Thầy vắng mặt. Chú Thứ là người lanh lẹ tháo vát nên thường theo làm thị giả cho Thầy. Thầy Tâm Thanh xuống tóc trong mùa tranh đấu năm 63, ở một thời gian ngắn rồi vào Nam tu học. Chùa Viên Giác lúc ấy chúng lý rất đông cũng như những người tỵ nạn chiến tranh về ở cũng nhiều.

Sau pháp nạn 1963, Thầy tôi đã trở thành một trong những yếu nhân quan trọng của Phật giáo Quảng Nam. Ai cũng nghĩ chúng Viên Giác lúc đó sướng nhưng thật ra kinh tế vẫn giữ tinh thần của chư tổ “bất tác bất thực”. Tôi lo về phần ứng phú, chú Như Mậu mở phòng mạch châm cứu, chú Như Điển chầm nón v.v… Trong những ngày sóc vọng chùa làm đậu khuôn để phát hành. Chú Như Điển lo phần gánh nước và bòng đậu. Lúc ấy không có máy nước như bây giờ nên Chú Điển phải gánh nước ở các giếng gần chùa mới đủ nước cung ứng cho công việc. Các em học sinh như Nhơn, Nhiêu lo phần xay đậu với một cái cối bằng đá to, phần chế biến thành phẩm nhờ các đạo hữu như bà Chín, bà Trợ, bà Năm Nga, chị Bốn v.v…, phần đi phát hành thì có chú Ngô, chú Đức. Đôi khi các bà đạo hữu dưới phố lên mắng vốn: “Chú Đức gánh đậu khuôn đi bán mà cứ rao ai mua cá liệt không” khiến cả chúng được một trận cười vỡ bụng.

Người đời thường nói “Thợ rèn ăn dao luộc” quả không sai. Tuy cả chúng làm đậu nhưng mấy khi được ăn một miếng đậu ngon. Đa phần đậu được đem đi bán để có tiền trang trải cho các khoản sinh hoạt của chùa. Các mảnh cắt rẻo còn lại thì nấu canh cho chúng ăn. Thỉnh thoảng các cô cũng như các anh Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Quảng Nam lấy xác đậu xào với rau răm rồi nướng bánh tráng xúc ăn. Đó là bữa tiệc ngon nhất của đại chúng thời ấy.

Chúng chùa Viên Giác thời ấy rất đông nhưng tôi chẳng thân ai ngoài chú Như Điển. Thời gian chú Như Điển ở Viên Giác khoảng 2 năm nhưng anh em chúng tôi rất là khắn khít. Chú Điển là người siêng năng trong việc tu việc học. Trong những mùa thi, tôi thấy Chú học bài rất khuya nhưng sáng sớm 3 giờ đã dậy cùng đại chúng công phu. Sự chăm chỉ siêng năng của Chú được đền bù xứng đáng khi cuối năm học Chú được xích lô chở về chùa với đầy phần thưởng của trường, khiến cả chúng ai cũng tự hào.

Chú Như Điển tánh tình nghiêm túc, ít khi nào tôi thấy chú giỡn cười và nói chuyện của người nên trong chúng ai cũng nể sợ. Chú tuy trẻ tuổi nhưng cũng đã toát lên sự uy nghiêm của một người Thầy. Có lần chú Trai trèo lên mái chùa hái trộm khế của Bà Chất. Chẳng may chú sẩy tay té xuống, cả chúng ai cũng nghĩ chú gãy chân. Có ai đó la lên: “Chú Điển ra đó mi!”. Thế là chú Trai co giò chạy trốn vì sợ bị chú Điển trách phạt.

Thời gian huynh đệ chúng tôi ở Viên Giác chỉ có 2 năm với nhiều kỷ niệm không thể nào quên. Đến năm 1969 thì chú Như Điển vào Sài Gòn tu học rồi du học Nhật Bản năm 1972. Đến năm 1974 Chú có dẫn vài người Nhật về thăm quê hương. Tôi có hỏi Chú khi nào về lại? Chú nói học xong thì sẽ về. Tuy nhiên, sau năm 1975 thế sự đổi thay và từ đó đến nay anh em chúng tôi không có cơ duyên gặp gỡ nhau nữa. Sau này nghe nói Thầy Như Điển đã sang nước Đức hành đạo và làm một ngôi chùa rất lớn cũng lấy tên Viên Giác.

Sau năm 1975, đứng trước những biến động của xã hội, đời sống của người tu cũng gặp nhiều khó khăn hơn trước. Thế rồi, cuối năm 1976 tôi giã từ ngôi chùa Viên Giác thân yêu và trở lại đời sống của người cư sĩ. Tuy không còn làm Trưởng tử Như Lai nhưng tôi vẫn hằng tâm niệm mình sẽ làm theo khả năng thực tế của mình để báo đáp ân Thầy Tổ và trả nợ tín thí đàn na. Vì thế, trong những ngày sóc vọng tôi về chùa phụ Thầy trong nghi lễ, hoặc ruộng nương tôi cũng phụ giúp cùng Thầy, hoặc khi những vị đạo hữu lâm chung mà Thầy bận việc thì tôi đến hộ niệm tống táng v.v….

Trong nhà chùa thường có câu “bông xoài trứng cá” để chỉ cho sự khó thành tựu xuyên suốt một đời tu của người tăng sĩ. Ngẫm lại điều này cũng không sai. Trước năm 1975, chúng chùa Viên Giác rất đông, nhưng trải một cuộc biến thiên của lịch sử thì giờ chỉ đếm còn trên đầu ngón tay. Thế hệ chúng tôi trước 1975 có khoảng 20 vị nhưng đi đến chung cuộc thì chỉ còn hai vị, đó là Cố Hòa Thượng Thích Tâm Thanh -khai sơn Vĩnh Minh Tự Viện tỉnh Lâm Đồng và hiện tại còn Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Đức Quốc. Cả hai vị đều thành tựu đạo nghiệp, hoằng pháp một vùng làm rạng rỡ cho ngôi nhà Phật pháp. Đây cũng là điều tự hào của tất cả anh em chúng tôi.

Giã biệt nhau cũng đã tròn 40 năm tôi chưa một lần gặp lại Hòa Thượng Như Điển. Thời gian sau này, Thầy có viết thư thăm tôi và thỉnh thoảng cũng trợ giúp trong những khi gia cảnh ngặt nghèo. Tuy giờ tăng tục có phần cách biệt nhưng tôi nghĩ rằng tình cảm anh em chúng tôi không bao giờ thay đổi. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó tôi sẽ gặp lại Hòa Thượng, gặp lại Chú Điển thân thương thuở nào để ôn lại một thời tu học dưới mái chùa xưa.

(Đầu hạ năm Giáp Ngọ, 2014)

Quỹ Học Bổng Hiền Mẫu của HT. Thích Bảo Lạc và Quỹ Học Bổng Thích Như Điển

cấp phát suốt 20 năm qua cho học sinh nghèo học hạnh kiêm toàn tại các trường trung học Quảng Nam
blankblankblank

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2016(Xem: 16044)
Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó
23/04/2016(Xem: 11057)
Các giới văn học Việt Nam xưa nay, thường nói : “Là thi sĩ, ai cũng có tâm hồn rất lãng mạn, đa tình trước trăng, sao, núi non, sông, hồ, suối reo, biển cả, trời xanh, đồng nội cò bay, sắc hương nữ nhân và ưa ru với gió, mơ theo trăng và lơ lững cùng mây . . .”.
21/04/2016(Xem: 18225)
Tôi đã đọc trên internet một bài viết rằng nhiều đọc giả nói tác giả của bài thơ “Mất Mẹ” được trích dẩn trong cuốn truyện rất nổi tiếng “Bông Hồng Cài Áo” là của chính tác giả Nhất Hạnh. Lại có bài viết rằng nhiều người đã nghe trong chương trình phát thanh cũng nói tác giả bài thơ “Mất Mẹ” là của Thích Nhất Hạnh.
08/04/2016(Xem: 18613)
Nguyệt San Chánh Pháp, bộ mới, số 53, tháng 04 năm 2016, Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh.
05/04/2016(Xem: 7266)
Với những bậc cha mẹ Việt sống tại hải ngoại, được nghe con nói tiếng mẹ đẻ là hạnh phúc lớn lao, đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ. Làm thế nào để gieo cho con tình yêu tiếng Việt là câu hỏi lớn với những người làm giáo dục.
26/03/2016(Xem: 4886)
Những ngọn gió cuối mùa (hay đầu mùa?) đi ngang vườn cây vừa đơm lá mới. Những cánh hoa rơi còn vương vãi nơi này nơi kia, dưới những gốc cây lớn, nhỏ. Thỉnh thoảng, bụi và rác tung mù mịt theo gió. Gió qua rồi, rác nằm im, mà bụi hãy còn lơ lửng trong không. Bầu trời cuồn cuộn mây xám như thể chuẩn bị cho một cơn mưa lớn. Nhưng không. Chỉ có những hạt nước, nhỏ như bụi, lất phất rơi xuống thềm rêu xanh. Đừng nói sáo ngữ rằng ta là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, khi chúng ta tiếp tục tham lam, theo đuổi không ngừng ý muốn chiếm hữu, tranh đoạt cho phần mình. Đừng nghĩ suông rằng cuộc sống mong manh vô thường, khi chúng ta chưa thực sự mở lòng thương yêu, cảm thông, đón nhận quan điểm và lẽ sống của người khác.
10/03/2016(Xem: 10504)
Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lạ i- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trôi chảy (nói) và thuận tai (nghe).
10/03/2016(Xem: 9956)
“This is SBS Radio The many voices of one Australia Broadcasting in Vietnamese Đây là SBS Radio Và sau đây là chương trình phát thanh Việt Ngữ”... Đó là nhạc hiệu mở đầu của Ban Việt Ngữ SBS Radio vào thập niên 1990 - mười lăm năm sau ngày đàn chim Việt tan tác lìa bỏ bầu trời quê hương. Mới đó mà đoàn lưu dân lê bước chân mục tử đã 40 năm rồi! Với hành trang tị nạn trên vai khi đến với SBS Radio, trong tôi vẫn còn đọng lại những thanh âm thảng thốt, kinh hoàng, van xin cầu khẩn của các thuyền nhân đồng hành khi gặp hải tặc Thái Lan, chuyến vượt biên bất thành đưa những con người sắp đến bờ tự do quay trở về quê cũ để rồi tất cả đều bị bắt vào tù, dù là trẻ con còn bồng ẳm trên tay. Đất nước tôi như thế đó, những con người còn lại trên quê hương sống vất vưởng đọa đày, những con người bỏ nước ra đi không nhìn được trời cao mà lại chìm mình dưới lòng biển lạnh
10/03/2016(Xem: 10065)
Năm 1979 thường được coi là điểm khởi đầu của nền báo chí Việt ngữ tại Úc khi số đầu tiên của tờ Chuông Sài Gòn được phát hành tại Sydney. Tờ báo này xuất bản 2 tuần một lần và sau đó đã trở thành một tuần báo. Trong vòng bốn thập niên qua, truyền thông tiếng Việt đã trải qua thời kỳ phát triển không khác chi truyền thông của các cộng đồng văn hóa đa nguyên khác, theo nghĩa là ngành này đã phát triển về số lượng cũng như sức mạnh theo đà phát triển của cộng đồng nói tiếng Việt.
05/03/2016(Xem: 11558)
Chiều xuống giữa ngàn cây, Sương lam hòa trong mây Cỏ dại lấp lối đi Lữ khách dừng chân nghỉ Lắng nghe tiếng nước chảy Lần theo suối đi mãi Hết đường – một hồ vắng Nước lặng loáng trăng vàng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]