Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba Tôi

15/05/201417:50(Xem: 5980)
Ba Tôi

Cha-2
BA TÔI

Võ Đại Sinh

--- o0o ---

Hôm nay ngày giỗ của Ba tôi, tự dưng lòng tôi thèm viết một chuyện gì đó về Ba tôi…như nhà văn Võ Hồng thường khuyên mọi người nên viết lại những kỷ niệm sinh hoạt của cha, của mẹ mình, những kỷ niệm mà mình nhớ hơn hết, đáng nhớ hơn hết…để nhân ngày k?giỗ của cha mẹ, tập trung về, cùng đọc, cùng nghe, cùng xúc động, hồi tưởng công ơn. Con cháu sẽ có dịp sống lại không khí đại gia đình, con nhớ thương cha mẹ, cháu gần gủi, quý trọng ông bà!

Trong cuộc sống, thường khi biết nên làm việc gì thì đã quá chậm. Nhưng chậm còn hơn là chẳng bao giờ.

Mọi người quanh tôi, bà con, hàng xóm, láng giềng…kể cả mẹ tôi nữa, thường nói tôi giống ba tôi lắm, giống từ tướng đi, cách ngồi, giọng nói, tiếng cười. Mới hôm nào đây, mẹ tôi mất, khi tôi về quê chịu tang, anh Bảy hàng xóm còn nhắc lại với mọi người là phong thái từ xe bước xuống của tôi sao giống ba tôi quá…Nhưng chắc rằng không ai hiểu được, ngoại trừ ba con tôi,…tôi còn giống ba tôi đến cả những nổi buồn riêng!

Hình như là từ khi sinh ra đời, bản chất tôi đã sẵn ghét những người giàu. Có phải vì cái nghèo khó đeo đẳng gia đình tôi quá lâu, vì những người giàu quanh tôi luôn coi nặng tiền bạc hơn tình nghĩa, hay vì tôi đã thừa hưởng di sản không thích nhà giàu của ba tôi!

Mãi đến bây giờ, khi ba mẹ tôi đã qua đời, tôi vẫn chưa hiểu rõ mẹ tôi và ông Chín…bà con như thế nào. Chỉ biết mẹ tôi kêu ông bằng chú Chín, và đôi khi bực lòng, ba tôi thường nói " tao chịu đựng kéo dài cuộc sống làm thuê cho ông Chín chỉ vì ông ta là chú của mẹ tụi bây".

Lúc xung đột biên giới giữa Việt Nam và Cao Miên khoảng năm 1960-61 gì đó, tôi còn nhỏ lắm. Ba tôi bị kẹt ở bên Cao Miên vì biên giới bị đóng cửa, và ghe đi muối cá ở Nam Vang của ông Chín do ba tôi chịu trách nhiệm phải neo lại chờ. Và "vì ông Chín là chú của mẹ tụi bây"…nên ba tôi chấp nhận cực khổ, hiểm nguy nằm trên ghe muối đầy cá chờ…trong lúc những người đi muối cá cho các hảng nước mắm khác lên Nam Vang tha bồ ăn chơi, phung phí. Hơn một năm sau, khi biên giới được giải tỏa, chỉ có một mình ghe cá của ba tôi là được về đến nơi an toàn, không mất mát gì hết. Đón ba tôi tại bến ghe của hảng nước mắm, ông Chín mừng rở ôm chặt ba tôi…nhưng sau nầy khi có dịp tâm sự với tôi, ba tôi nói, lúc đó ông Chín mầy ôm tao không phải vì mừng rở tao bình an trở về đâu…mà là để coi tao có lận dấu vàng trong người không. Nhờ ghe cá muối hiếm hoi thoát được về đó, ông Chín ngày càng giàu sụ thêm.

Để đền ơn ít nhiều cho sự giàu có đó, ông Chín có hứa cho ba tôi một cái radio hiệu Phillip của Hòa Lan, màu nâu, đã cũ. Lời đó đã khiến cả nhà tôi vui vẻ, mơ mộng chờ đợi. Ở thời điểm đó, radio còn hiếm quý lắm, chiều chiều người có radio mở đài lên là cả xóm bu lại thèm thuồng chờ nghe. Mơ mộng của gia đình tôi không thành vì cuối cùng ông bà Chín đổi ý kiến, im lặng làm lơ và ba tôi cũng chẳng dám nhắc gì đến chuyện hứa cho đó nữa. Anh Bảy tôi lúc đó đang đi cảnh sát ở trên Saigon, thể theo ý nguyện của cả gia đình và để tránh khỏi mất mặt với bà con hàng xóm…Vì đã lở khoe, đã lùng khắp Saigon để tìm được đúng cái radio Phillip của Hoà Lan, màu nâu mang về.

Lúc ấy, ba tôi đã chán cảnh làm thuê cho ông chú vợ rồi, nên về lại quê tiếp tục sự nghiệp làm ruộng. Cảnh an nhàn sáng vác cuốc đi chiều vác cuốc về không kéo dài được bao lâu thì họa đến với gia đình tôi: ba tôi được dân làng cử làm Xã trưởng! Né tránh làm xã trưởng bằng nhiều cách, kể cả cách giả bịnh, cách nhờ người lo lót…không được, một nông dân chất phác, ba tôi trở thành xã trưởng bất đắc dĩ…lúc nào cũng nghĩ cách từ quan!

Thời ba tôi làm xã trưởng, huynh trưởng Văng Văn Thống, một đàn anh hành chánh lâu đời của tôi làm quận trưởng. Thời gian đó khá ngắn, không biết ba tôi đã đóng góp được gì cho cư dân trong xã, chỉ biết, mỗi lần ông xã trưởng đi lên quận Hòa Đồng họp, tôi phải đến nhà chú Năm Tiếu mượn đôi dép da, họp xong, tôi chùi lau, bỏ vào bao nylon cẩn thận…mang trả lại chú Năm; chỉ nhớ, gia đình tôi đã phải theo lệnh ông xã-trưởng-ba tôi…nhường khu đất nhà mình đang an cư lạc nghiệp cạnh trường học cho các em nhỏ có chỗ học hành để dọn đến phần ruộng Bác Hai Lang lên nền cất nhà khác ở!

Lần về đám giỗ ba tôi năm rồi, khi nhắc lại thành tích xã trưởng của ba tôi, anh chị em tôi có nhắc đến hai vụ kiện tụng ba tôi thường sảng khoái nhắc tới, dù rằng không biết cách xử kiện của ba tôi vào thời điểm đó có đúng luật không.

Vụ thứ nhứt là vụ ông hương chủ thưa ông hương chánh tội thông dâm với vợ ông có anh Hai lái xe ngựa làm chứng. Ba tôi cho mời anh Hai nhân chứng đến trước. Gặp mặt ba tôi, anh ta thề là đã khai thật vì chính anh khi đi soi cá ban đêm, đã chính mắt thấy ông hương chánh và bà hương chủ…đang làm việc ở một cái chòi giữa đồng. Ba tôi nói :" tôi tin chú, nhưng nếu làm lớn vụ nầy ra, chú có được gì đâu, trong khi sự đổ vỡ của hai gia đình và tổn thương danh dự của hai ông Hương chủ và Hương chánh quá lớn. Thôi thì chú nên suy nghĩ kỷ lại, làm tờ phản cung, bỏ qua vụ kiện để mọi người được vui vẽ". Nghe lời ba tôi, anh Hai làm tờ phản cung…Gia đình hai ông Hương chủ và Hương chánh, nhờ vậy đã tiếp tục cuộc sống hạnh phúc cho đến ngày hai ông qua đời!

Vụ kiện thứ hai là vụ hai vợ chồng trẻ bồng đứa con duy nhất mới sinh đến xã xin ly dị. Nghe qua vụ kiện, nhìn sự trìu mến của cả hai vợ chồng dành cho đứa con, ba tôi nghĩ là quan đã có cách xử lý! Ba tôi nói, chú thiếm muốn xin ly dị thì không có gì trở ngại. Còn con thì tính sao đây? Cả hai vợ chồng đều giành quyền nuôi con hết. Ba tôi cứ giữ im lặng để cho hai vợ chồng giành qua giựt lại một hồi rồi mới phán, có một đứa con làm sao chia đủ cho hai người được, thôi chú thiếm mang con về tiếp tục thời chung sống…cho đến khi đẻ thêm được một đứa nữa rồi trở lại chia công bình. Cặp vợ chồng nầy, nay đã có với nhau năm con!

Với sự khép léo và một ít thành tích đóng góp, ba tôi nhanh chóng tạo được sự mến phục và nể vì của cư dân trong xã. Nhưng sự mến phục và nể vì đó không đủ giữ chân và thay đổi ý định từ chức luôn canh cánh trong lòng ba tôi. Radio anh Bảy tôi mua về chẳng được bao lâu, anh chị em chúng tôi còn đang say mê với những tuồng cải lương mỗi tối thứ bảy mùi mẫn, trước sự thán phục của những người hàng xóm…vì có được cái radio, thì ba tôi mượn tạm đem vô đồn trú của lính nghĩa quân bảo vệ xả, cho ban hội tề và đám lính nghĩa quân nghe mỗi tối để lấy lòng họ cho ba thôi làm xã trưởng. Lúc đó, vì tình hình an ninh, cứ khi trời sụp tối là xã trưởng và toàn ban hội tề tập trung vào đồn ngủ. Dần dần, với cái radio đó và khả năng thuyết phục của ba tôi, mọi người đã đồng ý cho ba tôi từ quan về làm ruộng.

Ba tôi không thích làm quan, cả nhà tôi chẳng ai thích quan quyền cả, vậy mà tôi lại chọn theo học Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để bước chân vào quan trường! Số là khi còn cơ hàn, ông Chín có một thời gian làm công cho một hảng nước mắm ở Cần Thơ và có dan díu với một nữ công nhân cùng hãng. Kết quả là cho ra đời một đứa con trai giống ông như đúc. Ba tôi nói con rơi thường giống cha lắm! Cũng như ba mẹ gọi ông Chín là chú, anh chị em tôi được lệnh gọi quý tử đó là chú Dinh. Chú Dinh đang theo học đại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh thì được ông Chín nhận về. Mọi người nhìn chú Dinh với cặp mắt thán phục, không hiểu vì chú học giỏi hay vì chú là con ông chủ hãng giàu sang! Tâng bốc của mọi người dành cho chú Dinh một cách quá đáng khiến tôi lâu dần chóa mắt với hào quang vây quanh người sinh viên hành chánh mà quên đi mặt trái của quan trường. Tôi tranh thủ thi vô trường Hành chánh trong hoàn cảnh đó!

Đến khi về lại quê nhà tập tành nghề phó quận, tôi mới cảm nhận được rằng, cũng giống như ba tôi, cẩm bào xã trưởng đâu có thích hợp với người dân chân chất. Tôi cảm thấy lạc lỏng và hiểu được vì sao ba tôi đã bằng mọi cách từ quan…về làm ruộng!

Bây giờ ngồi viết lại những dòng này về ba tôi, tôi còn nhớ lại rất rõ nụ cười bao dung của ba tôi khi kể lại chuyện ông Chín ôm mừng ngày ba tôi oanh liệt mang được ghe cá an toàn trở về; tôi còn thấy được gương mặt rạng rỡ của ba tôi khi kể lại thành tích cứu vớt hạnh phúc gia đình của hai ông Hương chủ, Hương chánh và cặp vợ chồng son trẻ trong thời gian làm xã trưởng ngắn ngủi, bất đắc dĩ!


Melbourne, Mùa Vu Lan năm 2000
Võ Đại Sinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7886)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8548)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 10264)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567