Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Từ đó khai hoa

31/01/201206:22(Xem: 12305)
34. Từ đó khai hoa

TỪ ĐÓ KHAI HOA

2010 * Thế Hải

"Biển khơi kia trùng trùng nhưng có hạn

Đại dương kia mênh mông nhưng có bờ

Còn tâm ta trùm khắp cả hư vô..."

(Mặc Giang - Dòng sông nhân ái)

Đã bao mùa xuân trôi qua, tôi mãi say mê theo sắc màu của đất trời chưa lần thức tỉnh. Trời xanh, gió nhẹ, nắng trong. Mai trải cánh vàng liễu buông tơ lụa. Tôi cứ tưởng rằng những cảnh ấy có thể làm cho con người vơi bớt khổ đau và có thể lánh mình trong trời nước cỏ cây để dứt bỏ các nỗi buồn vui trên trần thế. Tôi dấn thân vào dòng thác lũ theo sự biến dịch của dòng đời. Tôi mơ mộng cái hạnh phúc được cấu trúc bằng một tư duy hướng ngoại truy tầm, trong sự đối đãi giữa được mất khen chê, cảm giác an vui chợt đến chợt đi đổi thay trong từng sát na sinh diệt. Thế rồi một hôm bước chân tôi rệu rã, tôi thấy mình như bị treo giữa đỉnh núi ngút ngàn và hố sâu thăm thẳm hoảng hốt giữa hư không. Trường đời đầy dẫy cơn gió lốc thịnh nộ từ muôn kiếp. Như một thói quen nghiệp dĩ, tôi tìm đến thơ văn hòa mình trong không gian nhuốm màu sắc tư tưởng triết lý qua sự lịch trải của đời người cùng Minh Đức Triều Tâm Ảnh:

" Đãy sách cũ con một già tư lự

Ngán ngẩm cười những chuyện cháng gì đâu

Sợi tóc bạc còn thương trời gió dữ

Mai mốt kia rụng xuống những chân cầu"

Rồi, có lúc tôi cùng Thạch Văn Thâu bước qua cát bụi hồng trần với những ước mơ có thể dịu dàng, có thể đau nhức trước tuyệt đối vô biên mà muôn đời chỉ là nỗ lực bất khả.

"Đáy bể lặng thầm không ánh nắng

Khát khao thấy được sắc mây trời

Thì xin hạt cát làm tâm ngọc

Đau đớn vo tròn một kiếp trai".

Nhưng rồi, tôi không thể không đắm mình trong tư tưởng triết lý nhân sinh sâu sắc cùng thi sĩ Mặc Giang. Bởi tôi nghe từ trong thơ ông những giọng nói thân thương, những lời chia sẻ rất thật, rất ngọt ngào rỉ rả bên tai tôi rồi thấm dần vào buồng tim nhỏ. Từng con chữ thân quen như những chiếc lá nhảy múa, muôn hồng nghìn tía trút xuống lan tràn ngô nghê trên giấy như cơn mưa rào phả vào lòng sa mạc. Để cho người cùng người bắt nhịp yêu thương và nghe cùng nhịp thở.

" Tay trong tay, ta nghe lòng xao xuyến

Tình trong tình, ta nối vạn tình thương

Tim trong tim, ta nghe vạn yêu thương

Máu trong máu, ta nghe cùng nhịp thở".

Tôi thầm tri ân sự hiến dâng lặng lẽ tuyệt vời như những vần thơ mà tình cờ tôi gặp. Thế là... gió đã tình cờ làm bay phấn hoa, đất tình cờ đón lấy. Nắng tình cờ sưởi ấm. Mưa tình cờ tưới tẩm nên hạt tình cờ nẩy mầm. Cây tình cờ mọc. Hoa tình cờ đơm bông. Gió lại tình cờ đem phấn hoa bay xa... và bay tới đâu? Nào ai biết! Đất nơi nào đón phấn? Nào ai hay! Nhưng dòng chảy đó, chắc chắn vẫn quay đều, vạn hữu vẫn hiện đủ bao mùa mưa nắng...

Vũ trụ vô tận, không gian vô cùng, thời gian không hạn lượng. Sự khai mở và tiếp xúc với nội tâm là sự nghiệp muôn đời không ngừng nghỉ. Sự trôi chảy miên viễn của vũ trụ không điểm khởi đầu, chẳng nét chung cuộc. Diệt sanh, sanh diệt đắp đổi nhau vận khởi, chân trời luôn đổi mới, hạnh phúc ngày một khai quang.

Đến với thơ ông, chúng ta sẽ nhận ra hướng đi và lối sống đích thực của cuộc đời. Nó hiện hữu minh bạch giữa cuộc sống sinh diệt, trong nguyên tắc tương sinh tương quan duyên khởi. Sự đau khổ cùng cực hay sự êm dịu nồng cháy của trái tim biết thương biết cảm, ôm ấp bao nỗi đắm say mơ mộng của kiếp người đều biểu hiện từ chính hành vi tâm niệm và ngôn ngữ của chính tự thân ta, dù qua bất kỳ sát na nào của thời gian vật lý hay tâm lý.

" Ngã nhơn, ngã tướng, sinh vô ngã

Vô nhơn, vô tướng diệt vô sinh".

(Hoa Chơn Thường)

Thơ ông còn giúp ta trở về với sát na đầu của nhận thức để đón nhận hương vị ngọt ngào, hương thơm giải thoát khi:

" Lửa vô mình cùng dập tắt tơ mành

Thì nhân thế sẽ hòa bình miên viễn".

Rong chơi trong thơ Mặc Giang, ta chợt thức tỉnh hư tâm, nhận ra được bản chất của cuộc đời là gì. Và cánh cửa nguồn tâm luôn mở rộng, nó luôn đợi chờ đón nhận người con nhiều năm thất lạc quay về. Ông đã vẽ cánh hoa vô thường bất biến trong dòng chuyển hóa giúp ta ý thức được rằng cuộc đời như hoa đốm giữ hư không "như ánh chớp, tia pha, bọt bèo, bào ảnh" có gì đáng phải nắm giữ để rồi một hôm cùng thi sĩ:

"Ta nghe tiếng diễm hằng

Ngân pháp âm bất tuyệt

Ta nghe vô sinh, vô diệt

Ca vang tiếng hát Tỳ Lô".

Thơ Mặc Giang hiện hữu giữa cuộc đời như làn gió mát thổi qua những buổi trưa hè oi bức, làm dịu lại những chặng đường tử sinh với luồng gió nghiệp thổi tung cát bụi. Thơ ông là hơi thở, là trái tim thấm sâu vào lòng người như dòng suối ngọt ngào chảy êm dịu qua đồng ruộng, vườn tược của quê hương làm cho nơi ấy cùng đồng nội, đất mẹ thơm phức mùi nhân ái, nở nụ thương yêu.

"Người người ươm mơ hy vọng

Thương yêu thân thiện hòa vang".

Và đến bây giờ, tôi mới nhận ra Mặc Giang là trăng, ánh trăng của ông đang chiếu xuống cõi nhân gian thống khổ này. Nơi ấy, những vần thơ linh diệu đã băng qua thời gian đến với con người. Những cành hoa đạo đã làm rung động cõi thơ ông. Một làn hương phảng phất giữa cõi đời gió bụi gợi lên loài hoa bất tử giữa chốn phong trần.

"Ta gác bụi chận nguồn cơn của ý

Để cùng trăng thưởng thức nét diễm huyền

Để vẽ nên bức ảnh đẹp thần tiên

Mà lâu nay ta chưa từng để ý".

Và, có những đêm nơi phương xa, người đã sống trọn với trăng ngà để viết lên những vần thơ đạo hạnh, như là người bạn tri âm, tri kỷ của thế nhân, là vầng trăng treo lơ lửng giữa trời đã rải xuống cõi phiêu bồng đang ngái ngủ từng chút ấm êm ru giấc điệp mơ màng.

" Mảnh trăng treo đêm từng đêm nhắn gửi

Từ trên ngàn soi rọi xuống trần gian

Sống an lành một cõi sống mênh mang

Trang trải khắp mọi vành đai thiên thể".

Vào cõi thơ Mặc Giang một thoáng chơi, ta càng say đắm, trí tuệ và đạo đức con người càng tăng trưởng, cảm nhận được niềm vui vô tận. Sự hiểu biết và đạo đức trở thành nguồn dinh dưỡng nuôi sống và làm lớn mạnh tinh thần trong ta. Vì mấy ai nghĩ về ngọn cỏ, mọc vô tình trên lối ta đi? Với ông, tất cả hữu tình hay vô tình đều có hồn, có tình thương vạn hữu. Như làng quê yêu dấu, cùng đồng vàng xanh bóng mạ non, như mái nhà tranh đượm tình quê dân dã. Tác giả yêu quê hương da diết, hạ bút hồn cất cánh thơ:

" Đây rồi làng quê yêu dấu

Đồng vàng xanh bóng mạ non

Bếp hồng nhà tranh sưởi ấm

Đan tay nương níu vuông tròn".

Và, có những chiều ta lang thang trên phố, dàn ghế mây rải xuống một góc trời, bình trà ấm nồng thêm đậm nghĩa tình, những đóa sen hé nhụy bên hồ từ sáng ngạt ngào hương, ai còn bận rũ những cánh hoa lan tím võng đong đưa trên áo. Ta mặc nhiên thưởng thức những áng thơ trác tuyệt của thi sĩ, lộng trong nắng gió phong thái hào sảng muôn đời của thơ nhạc dìu dặt mênh mang chở hồn thơ Mặc Giang. Cùng thưởng thức tâm hồn thư thái, nhẹ nhõm, bao trở trăn, phiền não tan biến vào hư vô như cháy hết mình thì hoa phượng nhẹ nhàng rơi và "thôi hết rồi những niềm đau tan vỡ."

Đi vào thế giới thơ ông, ta thấy hiện lên hình ảnh dãy Trường Sơn sừng sững bóng dáng từ bi của ngàn mắt, ngàn tay ta lắng nghe và yêu thương muôn người, muôn loài. Thơ Mặc Giang là hoa, hoa nở giữa rừng hoang, tự nhiên mà rất tuyệt. Mặc Giang ơi! trên thềm rêu, tình cờ thấy bông hoa dại nở, ta còn dừng lại ngắm nhìn cám ơn hoa đã thầm lặng nở vì đời. Huống chi trước kho tàng thơ ca vô tận, thi sĩ đã hiến dâng và chia sẻ với ta từng tơ rung của phím đời chất ngất yêu thương:

" Tôi trầm ngâm vắng lặng

Mảnh hình cong đất nước của tôi ơi

Từ thị thành cho đến những vùng hẻo lánh xa xôi

Tôi luôn để ý những gì xảy ra từ Nam tới Bắc."

Những vần thơ như những hạt ngọc vô giá, bát ngát từ bi tâm, giác ngộ tâm, hoan hỷ tâm, Bồ Đề tâm, sám nguyện tâm, bất thối tâm và tri ân tâm...

Dù tha phương nhưng ông luôn lắng nghe từng hơi thở của tiếng côn trùng rả rích trong đêm khuya, tiếng lã chã của chiếc lá vàng khẽ rơi rụng trước hiên nhà, nghe từng tiếng thì thầm khua sỏi đá, từng bước đi trong nhịp đập của trái tim thổn thức dâng trào. Dù nắng, dù mưa, dù trong, dù đục, dù giông bão hay lũ lụt, hạn hán, thiên tai ông đều theo dõi những người con trên đất mẹ, quan tâm chia sẻ cùng đồng bào dân tộc qua những vần thơ mang nặng nghĩa tình với một tâm trạng dạt dào xúc cảm, cháy bỏng, đứng ngồi không yên. Trong đêm khuya, thi sĩ lặng lẽ bùi ngùi cặm cụi viết những vần thơ kêu gọi sự nhường cơm xé áo, thắt chặt tình thương của tất cả anh em một nhà trong dòng máu và nước mắt cùng mặn:

"Năm trước năm sau lũ lụt xoay vần

Đau xót vô ngần xin cứu người ơi

Ba miền đất nước quê tôi

Tang thương đổ nát đứng ngồi sao yên."

Làm sao ta nhìn hết được cuộc sống con người trong toàn thể pháp giới này. Vậy mà qua những vần thơ đượm chất trữ tình của Mặc Giang, ta thấy được cả chiều sâu và chiều cao; chiều sâu của tâm hồn con người và chiều cao của cuộc sống. Mặc Giang đã thể hiện ngữ ảnh của những thanh điệu, chín nhất, tròn nhất, viên mãn nhất trong tiếng thơ của mình. Nó rất thực, không cần phải bóng bẩy trau chuốt nhưng đậm đà bản sắc dân tộc, ấm áp nghĩa tình và bâng khuâng một nỗi niềm khó tả. Đó là điều đọng lại sâu nhất trong lòng ta.

Hòa vào dòng suối ngọt ngào trong thơ ông, nào anh, nào chị, nào tôi, không còn lạnh lùng quay lưng trước muôn ngàn nỗi đau của thế cuộc với những mảnh đời cơ cực mà nhà thơ từng hóa thân, để nhịp tim ta luôn bắt nhịp rung cảm, tiếng lòng thổn thức, ta chợt dừng lại, lắng tai nghe thì thầm khua "sỏi đá gọi bên đường", để tay trong tay cùng nhau vang đồi cao gió hát những điệp khúc vấn vương, lan qua từng khoảng lòng, sông sâu biển rộng, núi non ngút ngàn, đâu đâu cũng tràn ngập tình thương. Mặc Giang đã viết những lời thơ mặn mà, ý vị, phá vỡ ngăn cách vì tình thương bao la không hạn lượng:

"Ca vang đồi thế kỷ

Vượt ranh giới biên cương

Nở bằng hoa thiên ý

Tỏa thơm ngát muôn phương".

Tắm trong dòng chảy của thơ ông, niềm an vui lại trở về trong ta, đất trời hòa ca, gió reo vui trỗi khúc nhạc mừng xuân, mai nở vàng tươi, bông trái đầy khắp. Hoa thơm ngào ngạt nắng tươi hồng. Tình thơ thắm đượm hồn dân tộc. Lối về, làm đẹp tỏa núi sông...

Mặc Giang đã tặng cho đời những áng thơ bất hủ vượt thời gian với số lượng tác phẩm không đong đếm được, cả một rừng thơ bạt ngàn mênh mông biển tâm, tuyệt đẹp như sương mai, như ánh nắng long lanh giữa ngàn cây nội cỏ.

"Đọc thơ ông lòng tôi sao thấy lạ

Có quen đâu mà cứ ngở từ lâu

Ai khiến cho tôi bắt một nhịp cầu

Lòng vương vấn bên những dòng thơ cảm".

Thơ Mặc Giang đã giúp ta nhìn ngắm sự trôi chảy tụ tan, sinh diệt của vạn hữu với cái nhìn tỉnh táo trạm nhiên và an định, đưa ta trở về tao ngộ cùng quê hương, với miền đất an bình muôn thuở. Thơ ông dường như còn để lại cho ta một khoảng trống, một khoảng lặng khơi gợi một thế giới tâm linh mà ở đó thấp thoáng ánh sáng của từ bi lung linh ngọt ngào qua từng con chữ. Và biết đâu từ trong sâu thẳm tâm linh, ông đã gửi gắm tiếng gọi thống thiết muôn đời của pháp bất sanh, bất diệt. Từng câu chữ vắng bặt bản ngã và ngay ý thơ cũng trôi chảy vô ngã tính. Nó giúp ta học được cái dung dị khiêm tốn giữa thế gian kiêu ngạo và phô trương bản ngã.

"Mỗi hỷ lạc là đốt rừng phiền nộ

... Mỗi từ tâm là lên đường cứu khổ

Mỗi thong dong là về bến thanh lương".

Với thế gian vong thân tha hóa, vật thể hóa, phức rối, đa ngôn đa sự, khê nồng, ngọt ngào sáo rỗng thì nhân cách thơ của Mặc Giang càng cao quý hơn. Thơ ông là trúc, là tùng ... cắm rễ sâu nơi sỏi đá mà lá vẫn xanh tươi bốn mùa. Thơ đang bay trong chân trời tuyệt lộ, tuyệt lộ ngay chính chỗ đang bay, tuyệt lộ trên đôi cánh và tuyệt lộ cả cõi về.

Mặc Giang ơi! trên lộ trình bao nhiêu là thao thức trăn trở, cuộc tao phùng kỳ ngộ vô song, dù sẽ xa hút và bập bềnh trong khói sương mộng huyễn, nhưng chỉ một lần thôi, một lần gặp gỡ cũng đủ cho ta kịp nắm bắt tình thơ để trở về...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/01/2014(Xem: 17422)
Nhân Sinh Nhật 65 tuổi Tây (1949 – 2014) tức 66 tuổi Ta của Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác, sáng lập Chủ Nhiệm Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc; và kỷ niệm 50 năm xuất gia (1964 – 2014); đồng thời cũng để kỷ niệm 35 năm Báo Viên Giác (1979 – 2014), chúng con/chúng tôi sẽ thực hiện số báo đặc biệt Viên Giác 201, phát hành vào tháng 6.2014, với chủ đề: Hòa Thượng Thích Như Điển – 50 Năm Xuất Gia và Hành Đạo
21/01/2014(Xem: 22616)
Đọc bản dịch Cảnh Đức Truyền Đăng Lục của anh Lý Việt Dũng, tôi không khỏi thán phục khi biết sức khỏe anh rất kém mà vẫn phấn đấu kiên trì để hoàn thành dịch phẩm khó khăn này một cách đầy đủ chứ không lược dịch như ý định ban đầu.
06/10/2013(Xem: 72183)
Trước khi Sài Gòn sụp đổ, tôi đã có một thời gian dài sống tại Lăng Cha Cả, gần nhà thờ Tân Sa Châu. Để đến được trung tâm Sài Gòn, từ Lăng Cha Cả phải đi qua những con đường Trương Minh Ký – Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sĩ). Ở đoạn chân cầu Trương Minh Giảng có một cái chợ mang cùng tên và sau này
22/09/2013(Xem: 16715)
Bản Tin Khánh Anh
19/09/2013(Xem: 27707)
Không biết tự khi nào, tôi đã lớn lên trong tiếng chuông chùa làng, cùng lời kinh nhịp mõ. Chùa An Dưỡng (xem tiểu sử), ngôi chùa làng, chỉ cách nhà tôi chừng 5 phút đi bộ. Nghe Sư phụ kể lại, chùa được xây dựng vào khoảng từ 1690 đến năm 1708, do công khai sơn của Hòa Thượng Thiệt Phú, người Tàu sang Việt Nam truyền giáo cùng với các thiền sư khác. Trong chuyến đi hoằng pháp vào đàng trong, Ngài đã xây dựng ngôi chùa này. Chùa nằm trên một khu đất cao nhất làng, quanh năm bao phủ một màu xanh biếc của những khóm dừa, những lũy tre làng thân thương.
11/09/2013(Xem: 6846)
Có phải bất công lắm không khi hằng năm vào dịp Vu Lan, trên thế gian này không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ múa bút tán tụng tình Mẹ: Huyền thoại mẹ, Phật giáo tôn vinh giá trị những bà mẹ, lạm bàn về mẹ, tản mạn về mẹ v.v... và v.v... bên cạnh đó, dường như mọi người đã vô tình bỏ quên một thứ tình cũng nồng nàn không kém, đôi khi còn thắm thiết hơn, đó là tình cha. Vâng, tôi có một người cha như thế.
11/09/2013(Xem: 7902)
Khi bước xuống thuyền vượt biên ai cũng mang đầy hy vọng, mơ ước... Có kẻ mơ ước một tương lai xán lạn ở chân trời mới, có người chỉ mong những giấc mộng bình thường: Ngày hai bữa đủ no, tự do yên ổn...
28/06/2013(Xem: 2609)
Người lãng tử đã rong ruổi qua bao đoạn đường đời, trên những bước dài phiêu bạt. Đôi khi nghe trên vai hằn lên những dấu ấn, nặng nề, vương mang. Phải chăng cuộc làm người là ảo mộng, là phù du như sương đọng sớm mai, trên cành lá muôn lần thay hoa đổi lá.
27/06/2013(Xem: 3172)
GS TS Trần Văn Khê nói về âm nhạc Phật giáo Việt Nam
22/06/2013(Xem: 3059)
Hạc đi dọc theo con đường nhỏ, mặt trời đang xuống chầm chậm, cái nắng gắt gay của mùa hạ chỉ còn lại những oi nồng khó chịu. Cơn mệt từ đâu ập đến, Hạc chợt muốn ngồi bệt xuống lề đường, gục đầu vào hai cánh tay chìm thẳng vào giấc ngủ. Hai chân rời rã, cổ họng khát khô, cái mệt, cái buồn đổ ập lên cô, con đường thật vắng, cái nắng quái buổi chiều thật buồn, vậy mà trời đang vào Tết đó, cái Tết đang ở đâu khi cái tôi đang rã rời trong một khí hậu kỳ quặc ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]