Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành trình từ trường làng đến Đại học RMIT Việt Nam (hồi ký)

20/04/201322:05(Xem: 6464)
Hành trình từ trường làng đến Đại học RMIT Việt Nam (hồi ký)
Dr.Nguyen_Xuan_Thu_1

Dr.Nguyen_Xuan_Thu

Chương trình đào tạo Tiến sĩ

tại một số nước phát triển nói tiếng Anh


Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thu

(nguyên Giáo sư Đại học RMIT, Úc)



Đào tạo chương trình Tiến sĩ là một trong những hoạt động trụ cột của các đại học. Một chương trình đào tạo Tiến sĩ[i] nổi tiếng sẽ làm vẻ vang cho đại học và một chương trình Tiến sĩ thành công không thể không bắt nguồn từ các quyết định của một cơ cấu tổ chức đại học đa ngành với những chính sách, chủ trương phản ánh khát vọng tìm kiếm các giải pháp cho một tương lai phát triển và ổn định.


[i] Tiến sĩ = Doctor of Philosophy. Mỹ viết tắt là Ph.D.. Anh viết PhD (không có dấu chấm sau Ph và D).

1. Mô hình các Đại học đa ngành

Phần lớn các đại học tại những nước phát triển là những cơ sở giáo dục đa ngành và có cơ cấu tổ chức theo ba cấp:

- Đại học (university): chỉ có một university, không có nhiều universities trong một university như ở Việt Nam. Đứng đầu trường tương đương với Việt Nam gọi là Giám đốc (Rector như ở châu Âu, President như ở Mỹ hay Vice-Chancellor như ở Anh, Úc và New Zealand);

- Trường (có nhiều trường trong một đại học, ở Úc gọi là Faculties hoặc Colleges, tại Mỹ gọi là Schools): Đứng đầu một trường như ở Việt Nam gọi là Hiệu trưởng, nhưng tại các nước phát triển thì gọi là Dean; và

- Khoa (departments): có nhiều khoa trong một trường. Đứng đầu mỗi khoa tại Việt Nam gọi là Khoa trưởng (và dịch ra tiếng Anh là Dean), nhưng tại các nước phát triển thì gọi là Head of Department (HOD).

Chủ nhân của một Đại học dù đại học công lập hay đại học tư thục là Hội đồng quản trị Trường (Mỹ: Board of Trustees; Úc: University Council). Giám đốc của mỗi đại học tại các nước nói tiếng Anh làm việc trực tiếp với Chủ tịch và các thành viên của Hội đồng quản trị trường để thi hành các chính sách do Hội đồng đề ra và mỗi năm họp một vài lần với Hội đồng các Giám đốc Đại học (ở Úc gọi là Hội đồng Giám đốc các Đại học Úc (trước đây gọi là “Australian Vice-Chancellor’s Committee” nay gọi là “Universities Australia”)[1] để bàn các vấn đề liên quan đến đường hướng phát triển giáo dục đại học. Giám đốc không họp với Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo. Mỗi đại học chỉ liên quan đến Bộ Giáo dục và Đào tạo qua phân bổ ngân sách dựa trên chỉ tiêu sinh viên được nhận tài trợ của Chính phủ, các dự án xây dựng cơ sở vật chất (các Phó Giám đốc làm việc với các Vụ liên hệ của Bộ Giáo dục và Đào tạo), các dự án nghiên cứu phát triển (Phó Giám đốc đặc trách nghiên cứu làm việc với các Hội đồng khoa học) và báo cáo thống kê. Quản lý đại học, tự do hàn lâm (academic freedom), chất lượng giáo dục đào tạo, xây dựng các chương trình đào tạo mới và tái kiểm định các chương trình đào tạo (re-accreditation) sau mỗi 5 năm một lần, nghiên cứu và phát triển, giáo dục sau đại học gồm các chương trình đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ là những vấn đề hoàn toàn thuộc quyền quản lý và sáng kiến của mỗi đại học. Do đó, trong những cái khung lớn có rất nhiều sự khác biệt đầy sáng tạo giữa mỗi đại học đúng như tác giả Nguyễn Thị Minh Phương đã trình bày trong bài “Đào tạo tiến sĩ ở Mỹ: sự đa dạng có chuẩn mực” đăng trên Vietnamnet.

2. Cơ quan quản lý chương trình đào tạo Tiến sĩ

Hội đồng Khoa học (Academic Board) của một đại học là cơ quan cao nhất có nhiệm vụ tư vấn các vấn đề liên quan đến các hoạt động hàn lâm cho Hội đồng quản trị Đại học (University Council). Hội đồng này có trách nhiệm tư vấn, phê chuẩn các chương trình mới xây dựng, đưa ra các chính sách và quy định liên quan đến các chương trình giáo dục và đào tạo các cấp (đại học và sau đại học bao gồm các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ).

Quản lý các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ tại mỗi nước khác nhau. Tại Mỹ, mỗi đại học có một Trường sau đại học (Graduate School). Trường này có vị trí tương đương với các trường khác trong đại học. Tại Úc, mỗi trường (Faculty) trong một đại học (University) có một Khoa trên đại học (Postgraduate School). Lưu ý quan trọng: cấp School trong một đại học ở Mỹ có nghĩa như Faculty tại Úc (School = Faculty = trường) còn tại Úc cấp School tương đương với cấp Department ở Mỹ (School = Department = Khoa). Trách nhiệm điều phối Trường trên đại học ở Mỹ và các Khoa trên đại học tại Úc là Bộ phận Nghiên cứu và phát triển (Research and Development Portfolio) đứng đầu bởi một Phó Giám đốc nghiên cứu và phát triển. Bộ phận này lãnh đạo các Ủy ban phụ trách các vấn đề hàn lâm của các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ (Higher Degrees Committees) trong mỗi trường.

3. Điều kiện nhập học

Điều kiện để có thể nộp đơn xin vào học chương trình Tiến sĩ tại mỗi nước khác nhau. Ứng viên tại Úc và New Zealand hoặc đã có bằng Thạc sĩ (nghiên cứu, dự lớp hoặc vừa nghiên cứu vừa dự lớp) hoặc đã tốt nghiệp chương trình đại học (Bachelor degree) và hoàn tất một năm học danh dự chú trọng vào nghiên cứu (Honor Year). Những ứng viên thuộc loại này sau 12 hay 18 tháng, nếu kết quả các môn học có số điểm cao có thể đăng ký học thẳng lên chương trình Tiến sĩ.

Tại Mỹ điều kiện tổng quát là ứng viên phải tốt nghiệp bằng đại học (Bachelor degree), có số điểm trung bình cao, có bảng điểm tốt, có ít nhất ba thư hỗ trợ, một bài viết nêu lên lý do tại sao muốn học chương trình Tiến sĩ, và có số điểm thích hợp trong ky Thi chuẩn bị học lên Tiến sĩ GRE (Graduate Record Exam). Tuy nhiên mỗi đại học có chính sách xét tuyển khác nhau và điều kiện cũng khác nhau ở từng ngành học.

Tại Vương quốc Anh, trên lý thuyết bất cứ ai cũng có thể xin vào học chương trình Tiến sĩ nhưng trên thực tế muốn vào học ứng viên phải đạt được các tiêu chuẩn nhất định, như phải tốt nghiệp bằng đại học và một năm học lớp danh dự hoặc có bằng Thạc sĩ giống như ở Úc và New Zealand.

4. Tài trợ học chương trình Tiến sĩ

Phần lớn sinh viên học chương trình Tiến sĩ nhận được học bổng từ nhiều cơ quan khác nhau: từ chính phủ, ở mỗi đại học, các doanh nghiệp hay các cơ quan từ thiện, các tổ chức phi chính phủ.

Tại Úc, sinh viên thường nhận được học bổng để học chương trình Tiến sĩ từ Chương trình học bổng trên đại học của Chính phủ Úc (Australian Postgraduate Award)[2]. Học bổng này chi trả tiền ăn ở mỗi năm cho mỗi sinh viên khoảng 20.000 đô Úc. Các đại học cũng cấp một số lượng học bổng tương tự như APA lấy từ ngân quỹ của đại học. Ngoài ra sinh viên cũng còn có thể xin học bổng từ các Khoa và các trung tâm nghiên cứu trong đại học (ba cấp trong mỗi đại học đều có thể cấp học bổng), và các doanh nghiệp. Để có thêm phí sinh hoạt, các sinh viên Tiến sĩ Úc có thể dạy thêm các lớp ở bậc đại học. Học bổng cho sinh viên Tiến sĩ tại Úc thông thường kéo dài ba năm hoặc có thể gia hạn thêm sáu tháng nếu nghiên cứu sinh chưa hoàn tất chương trình đúng như kế hoạch. Sinh viên quốc tế học tại các đại học ở Úc phải trả toàn học phí lẫn phí sinh hoạt.

Tại Vương quốc Anh, nguồn tài trợ cho sinh viên Tiến sĩ thường đến từ quỹ các Hội đồng Nghiên cứu (Research Councils) do Chính phủ tài trợ, kéo dài ba năm, số tiền khoảng 12.600 đến 14.300 bảng Anh/năm bao gồm cả tiền học và sinh hoạt phí. Những sinh viên không nhận được học bổng thường đăng ký học bán thời gian để có thì giờ vừa đi học vừa đi làm nhằm kiếm thêm tiền trả học phí.

Các đại học tại Mỹ không muốn sinh viên Tiến sĩ làm việc bên ngoài trường. Thông thường sinh viên Tiến sĩ tại các đại học Mỹ được miễn học phí và được tài trợ dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguồn tài trợ và số kinh phí thay đổi từ đại học này qua đại học khác. Nhiều sinh viên được tài trợ qua công tác dạy học hoặc làm nghiên cứu. Những sinh viên khác tìm được học bổng ở đâu đó hoặc từ các dự án nghiên cứu của các tổ chức Tổ chức Khoa học Quốc gia (National Science Foundation) và các Viện quốc gia về sức khoẻ (National Institutes for Health). Nhiều đại học lớn dồi dào tiền trong ngân hàng cũng cung cấp học bổng cho sinh viên trong suốt thời gian học.

5. Chương trình đào tạo Tiến sĩ

Chương trình đào tạo Tiến sĩ được tổ chức khác nhau từ nước này qua nước khác và ngay cả từ đại học này đến đại học khác trong cùng một nước. Tại Úc và New Zealand, muốn xin vào học chương trình Tiến sĩ, ngoài những điều kiện về bằng cấp nói ở trên, ứng viên bắt buộc phải đệ trình một Đề cương nghiên cứu ngắn (short research proposal) trong đó ghi rõ lý do và mục tiêu của công trình nghiên cứu, các lĩnh vực dự định tiến hành nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, thời gian và phương tiện cần có để tiến hành khảo sát, và những thành quả cũng như các ứng dụng từ thành quả nghiên cứu ấy. Không như ở Mỹ, sinh viên Tiến sĩ không bắt buộc phải học một số môn tại lớp trong hai năm đầu, sinh viên tại Úc, sau khi được nhận vào học, trong khoảng thời gian từ sáu đến tám tháng phải hoàn thành bản Đề cương nghiên cứu chi tiết và phải được Hội đồng Văn bằng trên đại học cấp Trường (Faculty Higher Degrees Committee) chấp thuận. Sau khi bản đề cương được thông qua, người sinh viên từ đó mới chính thức trở thành nghiên cứu sinh và bắt đầu tiến hành công trình nghiên cứu theo đúng như nội dung và khung thời gian đã được chấp thuận trong bản đề cương. Trong suốt thời gian tiến hành công trình nghiên cứu sinh viên phải báo cáo hàng tuần hoặc hai tuần một lần công tác nghiên cứu với giáo sư hướng dẫn. Trong thời gian khoảng ba năm của chương trình Tiến sĩ, nghiên cứu sinh phải có ít nhất hai bài viết xuất bản trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành và đọc một số báo cáo khoa học tại một số hội nghị khoa học trong nước hoặc trên thế giới. Trong giai đoạn cuối, nghiên cứu sinh phải nộp bản luận án Tiến sĩ cho Trường. Sau khi nhận được bản luận án từ nghiên cứu sinh, trường có nhiệm vụ gửi bản luận án ấy đến cho hai hoặc ba giáo sư hoặc chuyên gia công tác tại các đại học khác tại Úc hoặc bất cứ ở nước nào trên thế giới để nhờ tiến hành thẩm định. Thời gian để hoàn tất công tác chấm luận án không quá ba tháng. Nếu bản luận án được đánh giá đạt yêu cầu thì nghiên cứu sinh được trường thông báo là nghiên cứu sinh đã hoàn thành chương trình học và đợi ngày chính thức công bố. Nghiên cứu sinh tại Úc và New Zealand không phải bảo vệ luận án Tiến sĩ trước một ban giám khảo gồm các chuyên gia trong ngành như tại Mỹ. Tiêu chuẩn để một luận án Tiến sĩ dù thuộc ngành khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội được đánh giá cao là bản luận án đưa ra được những khám phá mới lạ và được các nhà khoa học đồng nghiệp công nhận. Ngoài văn bằng Tiến sĩ (PhD), cũng như tại Mỹ và Anh, Úc còn có nhiều loại văn bằng Tiến sĩ khác được công nhận như Tiến sĩ Luật, Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh, Tiến sĩ Kiến trúc, Tiến sĩ Dự án (cho những ai có những dự án mang tính sáng tạo và độc đáo), Tiến sĩ In ấn (cho những học giả có tác phẩm có giá trị được công nhận)…

Tại Mỹ, Tiến sĩ (Ph.D.) là văn bằng cao nhất được các đại học cấp. Để hoàn thành văn bằng Tiến sĩ người sinh viên phải trải qua ba giai đoạn: giai đoạn đầu sinh viên phải học một số môn học tại lớp kéo dài từ một đến ba năm; ở giai đoạn hai người sinh viên phải dự một kỳ thi gồm các môn đã học qua trong giai đoạn đầu để trắc nghiệm vốn liếng kiến thức đã nắm được (gọi là “qualifying exam”); và giai đoạn cuối kéo dài từ hai đến bốn năm để tổng kết công trình nghiên cứu thể hiện sự đóng góp mang tính khám phá mới lạ của người sinh viên bằng một bản luận án Tiến sĩ. Sau cùng người sinh viên phải bảo vệ luận án Tiến sĩ của mình trước một Hội đồng hướng dẫn thuộc ngành nghiên cứu của người sinh viên. Ngoài văn bằng Tiến sĩ (Ph.D.), tại Mỹ Bộ Giáo dục Liên bang và Tổ chức Khoa học Quốc gia thừa nhận và khuyến cáo không phân biệt đẳng cấp giữa bằng Tiến sĩ (Ph.D.) với các loại văn bằng khác như D.M.A. (Tiến sĩ Âm nhạc), Ed.D. (Tiến sĩ Giáo dục), D.B.A. (Tiến sĩ Quản trị kinh doanh), D.Sc. (Tiến sĩ Khoa học) v.v.

Tại Vương quốc Anh, cũng như tại Úc, tài trợ chương trình đào tạo Tiến sĩ (“PhD”, lưu ý không có dấu chấm sau Ph và D) thông thường là ba năm toàn thời gian (nếu học bán thời gian thì lâu hơn) và luận án Tiến sĩ phải hoàn tất và nộp cho đại học trong vòng bảy năm. Có sự phân biệt hơi khác về bằng PhD tại Vương quốc Anh với một số các bằng Tiến sĩ khác, đặc biệt là các bằng Tiến sĩ trong các lĩnh vực như bằng Tiến sĩ văn chương (DLitt = Doctor of Letters) hay Tiến sĩ Khoa học (DrSc = Doctor of Science).

6. Chiều hướng cải tổ chường trình đào tạo giáo dục bậc cao học trên thế giới

1. Nâng cao chất lượng giáo dục

Hiện nay các trường đại học mọi nơi đang tìm mọi cách tự nâng cao chất lượng. Thể hiện chất lượng trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất là ISO 9000. Trong giáo dục và đào tạo có các tổ chức bảo đảm chất lượng giáo dục các trường đại học. Tại Mỹ có sáu tổ chức bảo đảm giáo dục đại học độc lập nhau và các đại học không bắt buộc phải tham gia các tổ chức bảo đảm chất lượng[3]. Tại Canada giáo dục đại học trong mỗi tỉnh có một tổ chức chất lượng riêng[4] và cũng như ở Mỹ, các đại học không bắt buộc phải tham gia các tổ chức bảo đảm chất lượng. Tại Úc có AUQA (Australian Universities Quality Agency)[5], một tổ chức độc lập và hoạt động trên cả nước và bắt buộc tất cả các đại học công lập và tư thục phải tham gia. Tại Anh chỉ có tổ chức UKAS (United Kingdom Accreditation Service)[6] là cơ quan được chính phủ công nhận là tổ chức quốc gia có chức năng cung cấp các dịch vụ bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Mỗi nước ở châu Âu cũng có tổ chức riêng nhưng trong những năm gần đây các Bộ trưởng giáo dục của 46 nước thành viên châu Âu đã họp và đưa ra Công bố Bologna đã vạch ra đường hướng phát triển và chuẩn hóa giáo dục đại học châu Âu. Tại châu Á, một số nước cũng bắt đầu đi theo các nước phát triển xây dựng chất lượng giáo dục đại học nhằm đưa giáo dục phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.

2. Khuynh hướng cải tổ chương trình đào tạo Tiến sĩ

Nhiều báo cáo gần đây cho thấy đào tạo có chất lượng ở bậc đại học rất tốn kém. Vì vậy có đề xuất là rút ngắn chương trình đào tạo bậc đại học xuống còn ba năm (12+3) và nâng cao chất lượng đào tạo bậc Thạc sĩ (12+3+2) và Tiến sĩ (12+3+2+3), trong đó đào tạo trong các công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong cả thực tập lẫn đóng góp vào ngân sách đào tạo.

Từ thập kỷ 1990 tại Vương quốc Anh có thành lập thêm một số chương trình đào tạo Tiến sĩ chuyên ngành ví dụ như bằng Tiến sĩ Kỹ thuật (EngD = Engineering Doctor), Tiến sĩ Tâm lý học lâm sàng (DClinPsy = Doctor of Clinical Psychology), Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh (DBA = Doctor of Business Administration). Muốn có những loại văn bằng này người sinh viên phải vừa dự lớp vừa nghiên cứu (giống như mô hình đào tạo Tiến sĩ ở Mỹ). Tại Đại học Oxford bằng Tiến sĩ không gọi là PhD mà gọi là DPhill (Doctor of Philosophy). Gần đây Bộ Giáo dục Vương quốc Anh còn đưa ra biện pháp là tại trường nào có ứng viên Tiến sĩ không hoàn tất văn bằng Tiến sĩ trong thời gian cho phép thì trường ấy sẽ bị hạ chỉ tiêu tuyển sinh.

Tại Mỹ từ phần tư sau cùng của thế kỷ trước các đại học đã cải tổ giáo dục đại học nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội Mỹ trong thế kỷ 21 thể hiện qua sự ra đời của Ủy ban Carnegie về giáo dục đại học. Các chương trình đào tạo Tiến sĩ từ đó phát triển rất nhanh. Cho đến nay có trên hai triệu sinh viên học các chương trình trên đại học và trên 300 nghìn nhà khoa học theo đuổi các chương trình hậu Tiến sĩ. Tuy nhiên tỷ lệ nghiên cứu sinh hoàn tất chương trình Tiến sĩ tại Mỹ không cao. Thời gian hoàn tất chương trình Tiến sĩ trung bình trong vòng 10 năm chỉ chiếm khoảng 57%, khoảng gần 30% sinh viên bỏ cuộc và số còn lại tiếp tục học nhưng phải mất trên 10 năm mới hoàn tất văn bằng Tiến sĩ. Hiện nay có khoảng trên 40 đại học hàng đầu của Mỹ có chương trình đào tạo sinh viên tốt nghiệp trở thành vừa là các chuyên gia trong lĩnh vực y học đồng thời là các nhà khoa học với văn bằng Tiến sĩ kép MD-PhD (Medical Doctor – Ph.D.).

3. Kinh nghiệm cải tổ giáo dục đại học tại Úc

Năm 1985 chỉ có rất ít sinh viên từ một số nước tại châu Á và vùng Thái Bình Dương nhận được học bổng của chính phủ Úc đến học tại các đại học Úc. Nhưng sau hai lần cải tổ giáo dục đại học (các năm 1987 và 1990), ngày nay (học kỳ 1 năm 2009) tại Úc có khoảng trên 450 nghìn sinh viên từ trên 120 quốc gia trên thế giới đến học[7]. Học phí thu vào trong năm 2009 bao gồm từ giáo dục phổ thông đến cao đẳng, đại học (khoảng 450 nghìn người) là trên 18 tỷ đô la Úc, là nguồn xuất khẩu lớn thứ ba trong nền kinh tế của Úc (sau xuất khẩu khoáng sản và dịch vụ du lịch)[8].

Có nhiều nguyên nhân khiến giáo dục Úc có nhiều học sinh sinh viên quốc tế đến học (17,7% sinh viên quốc tế trên tổng số sinh viên, Mỹ 4,6% và Cộng đồng châu Âu 5,8%): Nước Úc là nước có chính sách xuất khẩu giáo dục; Úc là một trong số rất ít nước có chính sách về bảo đảm chất lượng giáo dục hàng đầu trên thế giới; chương trình đào tạo trong các đại học mang tính liên thông cao và trang bị kiến thức và kinh nghiệm thích hợp cho người tốt nghiệp có thể tham gia ngay vào thị trường lao động; theo học tại các đại học của Úc ít mang tính rủi ro; ngôn ngữ tại Úc là tiếng Anh và người dân rất thân thiện…

4. Tuyên bố Bologna và chương trình Tiến sĩ tại các đại học châu Âu

Hiệp hội các đại học châu Âu (European University Association) từ năm 2003 đã khởi xướng Chương trình đào tạo Tiến sĩ cho giáo dục đại học và nghiên cứu châu Âu[9]. Chương trình này nhằm mục đích xây dựng một chương trình đào tạo Tiến sĩ có chất lượng về cả đào tạo lẫn nghiên cứu cho các đại học châu Âu[10].

Đề án này đã được Nhóm Bologna đưa vào chương trình hành động năm 2005. Theo đó, chương trình này đặt trọng tâm vào những điểm sau:

  • Chương trình Tiến sĩ: gồm chương trình đào tạo nghiên cứu sinh, giải quyết vấn đề giáo sư hướng dẫn, theo dõi và đánh giá các luận án Tiến sĩ, phát triển các kỹ năng có thể chuyển giao và ứng dụng các kỹ năng ấy vào các công nghiệp, chương trình Tiến sĩ toàn thời gian kéo dài từ 3 đến 4 năm.
  • Vai trò của các đại học: Xây dựng những cơ cấu mới trong các đại học như lập ra các trường nghiên cứu, trường trên đại học, trường đào tạo tiến sĩ hoặc các chương trình đặc biệt; xây dựng sự liên thông từ chương trình Thạc sĩ lên Tiến sĩ, gia tăng chương trình quốc tế hóa và sự thừa nhận văn bằng giữa các quốc gia.
  • Xác định trách nhiệm công và vai trò của nhà nước: đặc biệt gia tăng ngân sách và xã hội hóa giáo dục bậc Tiến sĩ và xây dựng các khung về quy trình và pháp lý của giáo dục bậc Tiến sĩ.

7. Thay lời kết luận

Là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, Việt Nam không thể mãi mãi tồn tại trong một nền kinh tế nông nghiệp. Chúng ta phải xây dựng cho được một nền kinh tế tri thức thực sự. Muốn có một nền kinh tế tri thức không ở đâu có thể sản xuất ra nó ngoài các đại học. Muốn chu toàn được sứ mệnh của mình, các đại học phải được tự do cải tổ lại cơ cấu tổ chức, phải có sự tự do hàn lâm trong quá trình quản lý và điều hành các chương trình đào tạo. Đại học không thể tồn tại bằng những chương trình đào tạo chắp vá, vay mượn và không bắt nguồn từ nhu cầu thực tế của xã hội.

Gần đây Chính phủ có đưa ra chỉ tiêu đào tạo 20 nghìn Tiến sĩ trong một số năm. Những người quan tâm thường xuyên đến giáo dục có nhiều thắc mắc: Chúng ta tiếp tục đào tạo những vị Tiến sĩ như hiện nay? Liệu Bộ Giáo dục và Đào tạo có ý định cải tổ chương trình đào tạo bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ đang tồn tại? Có công trình nào tập trung nghiên cứu chất lượng và giá trị đóng góp của các luận án Tiến sĩ của các nhà khoa bảng Việt Nam? Chừng nào Việt Nam có được những công trình như Tuyên bố Bologna? những cải tổ giáo dục đại học như ở Úc? hệ thống bảo đảm chất lượng như UKAS? hay một nền giáo dục “đa dạng nhưng có chuẩn mực” như ở Mỹ?



[1] AVCC = Australian Vice-Chancellor’s Committee (Hội đồng các Giám đốc Đại học Úc) có nhiệm vụ phát triển giáo dục đại học Úc, trong đó có tổ chức IDP (International Development Program) hoạt động nhằm phổ biến giáo dục đại học Úc trên khắp thế giới.

[2] APA = Australian Postgraduate Awards là mộ cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, Khoa học và Đào tạo Úc, có hai nhiệm vụ chính: Hỗ trợ các chương trình đào tạo nghi6n cứu sinh trong các đại học Úc và cung cấp tài chính cho nghiên cứu sinh trong nước.

[3] Xem Kiểm định chất lượng của các trường cao đẳng và đại học tại Mỹ (Accreditations of Colleges and Universities in the United States) do viện Federal Acquisition Institute phổ biến.

[4] Xem Ủy ban Kiểm định Giáo dục và Đào tạo Canada (CETAC = Canadian Education and Training Accreditation Commission).

[5] Xem Website của tổ chức AUQA để biết các hoạt động bảo đảm chất lượng của giáo dục đại học Úc www.auqa.edu.au

[6] Xem Website của tổ chức chất lượng UKAS của Vương quốc Anh www.ukas.com

[7] Xem Website của Bộ Giáo dục, Khoa học và Đào tạo Úc www.dest.gov.au

[8] Xem Website của IDP (Chương trình Phát triển Quốc tế của Hội đồng các Đại học Úc) www.idp.com

[10] Xem Chương trình Tiến sĩ trong các Đại học châu Âu: Thành tựu và thách thức (Doctoral Programmes in Europe’s Universities: Achievements and Challenges), 2006.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2018(Xem: 6913)
Trên chuyến bay đến Thượng Hải, vào giờ ngủ, bên trong máy bay đã tắt đèn, tôi phát hiện những người còn thức chơi “IPad” hầu hết là người Á châu – Họ đều đang chơi “game” hoặc xem phim. Thật ra ngay từ khi ở sân bay quốc tế Frankfurt, tôi đã thấy phần lớn hành khách người Đức đang yên tĩnh đọc sách hay làm việc; còn đa số khách Á châu đi lại mua sắm hoặc cười nói so sánh giá cả.
03/09/2018(Xem: 18123)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 12115)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6392)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3755)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4727)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7901)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4397)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11979)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 8142)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]