Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vết Cũ Trăng Soi

21/04/201719:21(Xem: 10389)
Vết Cũ Trăng Soi


Vang Trang

Vết Cũ Trăng Soi

​​

 

Sao lại soi trăng tìm vết cũ

Mà không là vết cũ trăng soi

Nhân ảnh mờ sương phảng phất non đoài

Nghiệp thức đó dõi theo từng gót ngọc

​​

 

Trí nhớ cũ một thời vang vọng

Trí quên nay vưu vật muôn vàn

Trải tâm từ hóa giải nghiệp châu loan

Để tâm năng xuôi theo dòng trường thức

 

Thức trường khởi một sinh thể thực

Giải kết cho người thanh thản cho ta

Quá khứ cách ngăn hiện tại ngọc ngà

Mọi tồn tại là phút giây hiện hữu

​​

 

Thôn Vỹ Dạ đẹp hàng cau trường cữu

Sánh vai cùng hàng dừa ngọt lòng nhân

Quá khứ rời xa hiện tại thật gần

Chỉ hiện tại mới thật là hiện hữu.

Trần Việt Long

6 April 2017



vang trang-2

Soi Trăng Tìm Vết Cũ

 

Nước mắt em – Ngục tù giam hãm

Chôn chân anh từ cuộc luân hồi

Ngần năm lưu luyến mờ cay mắt

Mịt mù hồn hoang lạc vết hương

 

Mười ba năm vụt vèo thoáng mộng

Biệt ly từ độ dạ tương sầu

Mây nước cô liêu vờn thăm thẳm

“Đêm Tàn bến Ngự” ngóng chơ vơ

 

Xuân về khơi nỗi buồn thiên cổ

Hồn phủ rêu phong tự thủa nào

Trên ni dưới nớ sầu ngơ ngác

Tháng ngày hiu hắt bóng thiên di

 

Mai nhủ lòng an nhiên xa phố

Nhạt màu son phấn nhạt mù tăm

Đối bóng soi trăng tìm dấu cũ

Lạnh lùng sương rớt bến phù hư

 

04.04.2017

Lê Diễm Chi Huệ

 


vang trang

Đêm Liêu Trai

 

Em hong tóc đợi anh về ve vuốt

Rưng rưng chờ giọt lệ rớt xanh xao


Như thường lệ Diễm thắp nhang bàn thờ mỗi đêm. Từ khi Bảo trở về từ bên kia thế giới, nàng đốt thêm một cây nhang cho Bảo với lời nhắn gửi là nàng vẫn bình yên. Bình yên bởi nàng bây giờ sống lặng lẽ, một ngày như mọi ngày chỉ giao thiệp với một vài người – rất thân hoặc rất sơ- chưa đếm đủ một lóng tay. Bao nghiệp chướng, vô minh và nước mắt đã đi qua. Là người sống nội tâm từ nhỏ, Diễm sở hữu một tâm hồn mong manh, mẫn cảm, buồn vui khác người.  Sự trở về của Bảo đánh thức một hình ảnh, một quá khứ nằm sâu trong tiềm thức khiến nàng trở nên như một kẻ mộng du. Bảo đã cho nàng hiểu rằng thế giới vô hình là có thật. Sống và chết dường như không có khoảng cách. Miền tâm thức vô định liên kết giữa thực thể hữu hình và vô hình đan xen bởi dòng nghiệp thức như một chuỗi dài bất tận. Cuối cùng ở cái tuổi không còn rực rỡ hoa mộng nhưng vẫn còn trong thềm xuân sắc, Diễm tìm đến bến cô liêu như một cuộc truy hoan đầy thi vị. Điều mà nàng không thể ngờ rằng bao năm qua nàng vẫn có Bảo. Bảo vẫn ngóng trông theo bước chân nàng dù không còn thân xác.  Đi về giữa khoảng thinh không bao bận, trầm mình trong đọa đày mà nàng chẵng hề hay biết. Diễm chỉ nhớ mỗi lần nàng buồn bã đều nghĩ đến Bảo, khổ đau cũng nghĩ đến Bảo như một nguồn an ủi vô  biên. Nàng đi bên cuộc đời với trùng trùng nỗi nhớ, mịt mù bâng khuâng.

Bước đến vách tường, đưa tay tắt bóng điện trần nhà rồi tiến về phía cây đàn dương cầm ở góc phòng, bật cây đèn ngủ để ánh sáng lờ mờ, ấm cúng hắt ra căn phòng khách mênh mông rồi đến chiếc sofa xoả mái tóc đang bối cao và đặt lưng xuống nằm nghỉ. Diễm lim dim hồi tưởng lại đoạn đối thoại mấy tháng trước…

“Em càng nhớ anh càng khổ”

“Nhưng làm sao em quên được”

“Đừng khóc!”

“Hôm nay em hát anh nghe không?”

“Đêm Tàn Bến Ngự”

“Ừ, em hát trong xe đó”

“Mấy hôm nay về ghé thăm. Chiều nay về ghé bữa cơm nhưng ngồi chơi không ăn. Thấy đồ ăn ngon!”

“Anh ngồi ở đâu?”

“Ở chén cơm đó!”

“Từ khi anh về mỗi buổi cơm tối em đều để một cái chén và đôi đũa mời anh ăn chung”

“Anh có nhớ em không?”

“Nhớ mới ghé thăm”

“Anh biết bao năm em nhớ anh không?”

“Biết chớ!”

“Lâu lâu anh về cho em mơ đi”

“Em sợ mà”

“Không dạo ni em không sợ nữa”

“Có chuyện anh mới về. Bình thường anh không về làm phiền”

“Anh ở dưới kia, lâu lâu anh mới ghé”

“Anh thấy em già hơn không?”

“Đẹp!”

“Mấy hôm nay về thăm, thương quá. Thương em nhưng không dám hun”

“Sao không hun?”

“Không có được. Ở dưới người ta không cho”

Bảo nói đến đây, Diễm không dằn lòng được, nàng sụt sùi khóc.

“Không có khóc!”

“Anh có hun tóc em không?”

“Không được, anh chỉ được hôn chân em thôi”

“Em trên này có chuyện anh về”

“Ở dưới đó người ta biết hết. Họ nói cho anh nghe”

“Tại sao anh ở lâu, tội em em chịu”

“Tội chung”

“Là sao?”

“Em làm anh gánh. Anh làm em gánh”

“Cộng nghiệp mà!”

“Anh đi nhưng tâm hồn anh luôn bên em”

“Vậy em làm gì anh cũng biết hả? Em khóc anh biết không?”

“Biết hết!”

“Sao biết?”

“Người bên kia thế giới mà”

“Em ơi càng thương càng khổ. Khổ người ở lại và người ra đi”

“Nói chút đi rồi anh sắp đi!”

“Là sao Bảo, anh đừng đi”

“Sao anh phải đi?”

“Có tín hiệu báo”

“Không, anh đừng đi”

“Không được khóc!”

“Sao không cho em khóc?”

“Khóc anh buồn!”

“Đi không được!”

Bảo giơ tay đấm vào ngực. Diễm không dám khóc to nhưng giọng mếu máo

“Anh về cho em khóc được không?”

“Về đã hay!”

“Anh ơi, anh ơi!”

“Nghe!”

“Đã nói không khóc mà!”

“Anh còn thương em không?”

“Thương”

Diễm bật khóc thành tiếng nhưng một vài phút sau, nàng lấy lại bình tĩnh

“Em không khóc nữa . Em xin lỗi”

“Anh đi, ở lại mạnh giỏi”

​​

“Anh ơi, em thương anh nghe”

“Nghe rồi, thôi đi”

….

Diễm  rùng mình, toàn thân ớn lạnh. Từ bao giờ, tất cả các giác quan của nàng trở nên nhạy bén lạ lùng, nhất là thính giác. Diễm có thể cảm nhận sự  hiện hữu của Bảo bất cứ lúc nào Bảo xuất hiện, chỉ cần cái ớn lạnh, âm thanh gõ nhẹ bên tai là nàng biết ngay. Diễm nhớ lại có lần hỏi Bảo:

“Anh về khi nào thì cho em tín hiệu để em biết”

“Em sẽ biết”

“Em người trần mắt thịt sao biết được”

​​​​

“Lúc đó sẽ hay!”

Bảo – không hương không sắc-  vất vưởng giữa thinh không, đi đi về về thăm nàng. Một chút da diết, se sắt nhói vào tim rồi giọt nước mắt ứa ra từ đuôi mắt chầm chậm rỉ xuống bên má. Một giọt, hai giọt tiếp nhau rơi lã chã làm ướt đẫm hai má. Nàng bước chậm vào phòng ngủ. Ánh trăng hắt vào những khe hở cửa sổ, những chiếc lá đong đưa nhảy múa như ma mị trên lùm cây hắt vào vách tường.Tiếng giựt nước vang lên từ nhà tắm kế bên phòng ngủ. Vài phút sau, âm thanh gõ nhẹ bên tai, bên gối. Tiếng rệp rạp của vách tường và tiếng chân người từ trên lầu vang lên. Diễm hiểu ngay điều gì đang xảy ra.  Dường như ai đó đang lay nhẹ bên vai.  Nàng khẽ gọi thầm: “Bảo ơi!”

Đêm cho những khát khao rạo rực, những mộng mị yêu đương của những đôi tình nhân trên dương thê’. Đêm cho những vong hồn chưa siêu thoát vất vưởng mịt mù giữa hai cõi âm dương, những ân tình chưa dứt cuộc trả vay. Diễm xoay nghiêng người, đưa tay hất ngược mái tóc dài ra sau mặt gối để không bị gãy.  Diễm cảm giác có bàn tay mát lạnh vuốt lên làn da. Một vệt sáng mờ mờ như một chiếc bóng lóe bên vách tường. Hơi thở  Diễm dồn dập. Đầu nàng lùng bùng và lịm vào giấc…

Tiếng tu hú vọng xa gần bên kia đồi báo hiệu trời hừng sáng. Diễm trở mình, nheo mắt nhìn ra khung cửa sổ. Xung quanh, nhà hàng xóm vẫn im lìm yên giấc. Âm thanh gõ nhẹ không còn bên tai. Diễm kéo cho ngay chiếc đầm ngủ xốch xếch, phía trước bị kéo xệch qua một bên, nhoẻn miệng cười biết rằng Bảo đã đi. Nàng ngồi dậy đưa tay bối mái tóc lòa xòa lên cao khỏi gót và bước vội vào phòng tắm.

04.14.2017

Lê Diễm Chi Huệ
http://www.lediemchihue.com/?p=3815

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 9377)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10949)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3610)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5312)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10472)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15013)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3475)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 13334)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]