Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bùi Giáng, nhà thơ vang vọng mãi

02/04/201320:44(Xem: 9615)
Bùi Giáng, nhà thơ vang vọng mãi

 

81 8a buigiang
BÙI GIÁNG
Nhà thơ vang vọng mãi

Đinh Hồi Tưởng

---o0o---

 


Bùi Giáng là một nhà thơ thiên tài xử dụng ngôn ngữ sức huyền ảo thượng thừa trong vườn thi ca hiện đại Việt Nam.


Tôi được nghe nhiều người truyền tụng ngợi ca Trung niên thi sĩ từ lâu lắm rồi, dần dần tôi làm quen tìm đọc thơ của bác, lúc còn làm chú tiểu ở chùa Tường Vân-Huế. Cuối năm 1978 có dịp sắp xếp lại tủ sách của thầy bổn sư, bỗng dưng tôi bắt gặp được tập thơ Mưa Nguồn của Bùi Giáng, liền giở ra xem, đọc đi đọc lại chỉ cảm nhận thôi, cho dù không hiểu, không bình giải nỗi một chữ một câu trong thơ, tôi ngưỡng mộ bác dù chưa một lần gặp gỡ. Thơ của bác tươi mát tràn ngập tâm hồn tôi từ dạo ấy, cho đến hôm nay (2002) đúng 24 năm trời tôi vẫn trân trọng giữ gìn tập thơ như một vật gia bảo quý hiếm!


Thời gian cứ vùn vụt trôi, tôi lớn lên ôm ấp một hoài bão vào đất Saigon có điều kiện thuận duyên tiếp tục học hành đến nơi đến chốn, lúc đó đầu năm 1981, lần đầu tiên tôi đặt chân đến thành phố hoa lệ này, được tá túc tại thiền viện Vạn Hạnh, tôi thiết nghĩ nơi đây hội ngộ đủ thành phần trí thức trong xã hội, là cái nơi đào tạo biết bao hiền tài cho đạo pháp và dân tộc.


Ngoài giờ công phu tu học, tôi hòa đồng cùng đại chúng để “sản xuất tương chao” trong những năm này kinh tế nhà chùa có phần eo hẹp phải tự lực cánh sinh “nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực”. Vào một ngày đẹp trời, thoạt nhiên bỗng đâu đó bác Giáng xuất hiện thật là kỳ tuyệt mọi người bàn tán theo cảm tính của riêng họ, còn tôi lấy làm sung sướng như gặp được “cố tri” đón tiếp niềm nỡ chu đáo, lúc này ở Viện vào giờ chỉ tịnh ban trưa, sợ làm động chúng dễ bị quở trách, nhưng tôi cũng dàn xếp trật tự kỷ cương mọi diễn biến đều êm xuôi cả. Tôi chế trà pha nước mời bác uống, thấy bác rất hiền hòa, đôi mắt sáng ngời như Đạt Ma sư tổ, áo quần thì xốc xếch, giọng nói tiếng Quảng Nam đặc sệt, có lẽ bác nghe âm thanh của tôi, bác cũng đoán biết là người đồng hương, bác viết tặng tôi hai câu thơ:

Ngõ về em có nhớ không
Bóng vang đầu nước hình lồng cuối hoa.


(BG)

Và tiếp theo là bài thơ tặng Tấn Huệ đi tu
Đi tu tu hú ở chùa
Tuyệt trù ở tận cuối mùa lang thang


Một giờ phố thị mênh mang


Chanh hồng quít lục thu dàn loạn ly

Mắt xanh hình thể trụ trì
Thường văn nhứt nhạn báo kỳ lai thu


Đường qua ngôn ngữ tuyệt trù


Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm


(BG)


Sau một giờ chỉ tịnh chuông thiền viện báo thức tôi, cũng xin tạm biệt chia tay một cuộc hội ngộ đầy hứng thú, đầy ấn tượng đối với bác, để tiếp tục công tác chấp lao phục dịch cho tròn bổn phận của mình, nhưng vẫn dõi mắt trong theo hình bóng dáng đi thơ mộng đó, nào gậy gộc túi đãy đeo quẩy luộm thuộm đầy người, bác lên đường làm kẻ rong chơi từ hỗn độn. Nhiều người cho bác là nhà thơ “Điên” mà âu chăng bác cũng cà rỡn thú thật như vậy:

Bây giờ tôi dạy tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền Hà Thanh.


(BG)


Tại sao nói bác Giáng điên? Điên sao mà có lý trí viết thơ, dịch thuật, lý luận hay tuyệt vậy! Tôi cho rằng có thể bác học nhiều, đọc sách thánh hiền Đông Tây Kim Cổ cũng bộn, tồn lưu trong tâm khảm nỗi bức xúc tư tưởng gây xung đột dễ trở thành người “dại chữ”? Nhưng không, ở đây bác Giáng hiện xuất nguồn năng lượng dồi dào sung mãn đặc sắc khác thường rất mực tài hoa!


Nhà thơ sống hồn nhiên thơ mộng như trẻ nhỏ vui đùa giỡn cợt miệng lảm nhảm, có khi nói tục lộng ngôn hí ngữ trêu ghẹo thật vi vu logích rất dễ thương: “H.T Minh Châu thương yêu sư cô Trí Hải đẻ ra Bùi Giáng”, nếu Hòa Thượng có nghe được cũng ôm bụng cười khì.

Thế ra thi sĩ trung niên
Là thằng bê bối quàng xiên trêu người


(BG – Thích Minh Châu Ca)


Ngưỡng kính thần tượng, tôn thờ hình bóng “Sư cô”, cái đẹp chân thiện mỹ lồng lộng vượt trên những đam mê chi phối đời thường, nhà thơ mơ màng gọi Phùng Khánh là Mẫu thân.

Ra sông nằm ngũ rập rình
Mẫu thân Phùng Khánh đẻ mình ra sao.


(Sa mạc trường ca)


Trong quyển thi ca Tư Tưởng, bác Giáng viết rằng: “Huống nữa là trong cõi thơ mộng chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung niên thi sĩ. Ai có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy. Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuông ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy. Tôi suy gẫm suốt bao năm trời nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu thân. Há đâu phải bốc đồng mà gọi bướng?”


Nhiều khi Thi sĩ đi ngang về dọc xuống đường làm “cảnh sát giao thông” sau một vài giờ điều khiển cộ xe mệt nhọc lão cái bang ung dung tự tại ghé lại Vạn Hạnh xin tiền, được Sư cô Trí Hải (mẫu thân Phùng Khánh) nhiều lần an ủi vỗ về.

Mẹ về bảo nhỏ con thôi
Đừng đeo đai nghiệp suốt đời lầm than


Thơ là thẩn vậy tro than


Tàn canh con chết trên tàn mộng kia.


(BG – Thích Phùng Khánh Ca)


Nhưng đâu cũng vào đó, rồi thì:

Chạy quanh khu vực thần tiên
Mỏi chân mười ngón kết liên bốn mùa


Vườn cây trái ngọt trái chua.


Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên


(BG)


Ngủ quên, một giấc ngủ, hiền lành và an lành không mộng mị, một giấc ngủ thánh thiện, nằm thanh thiên bạch nhật ở trước hiên chùa thẳng cẳng ngáy kho kho.


Thế mà...lại cũng...

Nửa đêm Bồ tát đề huề
Đi tu một trận còn mê khuynh thành


(Sa mạc phát tiết)


Năm 1988 tôi tá túc chùa Pháp Vân_Bình Thạnh gần đường Lê Quang Định để học khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp, nhà Bùi Giáng cũng ở gần đó, tôi thường qua lại thăm bác luôn, bác cũng vậy ghé đến chùa là viết thơ tặng cho tôi và thầy Nguyên Tạng, ngoài ra bác nhờ cất dùm tờ khai sơ yếu lý lịch nữa chứ, tôi và bác có chụp chung một tấm hình vẫn còn lưu giữ kỷ niệm.


Mãi cho đến ngày 5-7-1996 tôi cùng nhà thơ Nguyễn Đức tác giả tập Thế Tôn Ca (gồm 4000 câu thơ lục bát) chưa có điều kiện xuất bản, đến thăm bác giống như mọi khi, bác nằm trên võng đu đưa xem dăm ba cuốn sách, với cặp mắt kiếng cộm dày, gãy gọng được bó cột vài sợi dây nilon, thân thể bác tiều tụy vì nắng táp mưa sa cũng mặt kệ cho đời, nhưng tâm hồn và trí tuệ thì quá ư là siêu việt.


Ngồi quây quần bên nhau, bác trao đổi với anh em cõi văn nghệ, rồi bác xin tiền để uống rượu nhâm nhi, tôi hoan hỷ biếu tặng, bác ứng khẩu thành thơ cầm bút viết ngay một mạch.

Bài thơ kính tặng đại ca
Đinh-Hồi-Tấn-Tuệ-Tưởng là muôn năm.

(BG)

Bác ha hả cười reo huở tay múa chân lăn từ trên võng xuống đất, tôi và Nguyễn Đức cũng rộn rã vui theo. Sau đó bác cho anh em chúng tôi hai tập thơ, bác đề tặng “Xin kính tặng nhị vị đại ca hai tập thơ Rông Rêu khốn nạn của Trẫm” (BG) ký. Tôi lấy làm sung sướng được bác quan tâm chiếu cố hỏi thăm nơi ăn chốn ở, tôi trả lời sau một thời gian vắng bóng ở Sài Gòn, về ở một thị trấn nhỏ ven biển Hàm Tân, chọn mảnh đất bên cầu suối Đó dựng một thảo am gọi là chùa Đây, để tập tành làm thơ, đọc sách cho vui “Bay về hàm dưỡng công phu” (Thơ - Nguyễn Đức) và cũng sắp ra Hà Nội tham quan viếng cảnh chùa, ghé thăm một số bạn bè văn nghệ, đến vấn an các cụ lão thành thi nhân tiền chiến! Nói đến đây bác Giáng rất hân hoan mở to đôi mắt miệng nhanh nhẩu nói rằng: “À thầy đi cho tôi gởi tập thơ để kính tặng nhà thơ Huy Cận”, tôi vui vẻ nhận lời, nhưng rồi cứ nhởn nhơ rong ruổi phố thị la cà đến lúc cạn túi cháy da, phải chờ đến tháng 3-1997 mới đi được, nhân dịp này ghé lại trụ xứ Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam ở 51 Trần Hưng Đạo – Hà Nội, trực tiếp xin diện kiện gặp bác Huy Cận và trao lại tập thơ Rong Rêu bác Giáng gởi tặng, bác Huy Cận tiếp đón tôi nồng hậu chuyện trò thân mật chí tình, bác lấy giấy viết bài thơ nhỏ 4 câu bỏ vào phong bì và ghi: “Kính gởi anh Bùi Giáng” (xin nhờ thầy Thích Tấn Tuệ đưa tận tay – cảm ơn – H.C)
Sau khi chia tay bác Huy Cận, tôi và nhà thơ Dương Hùng ghé thăm bác Tế Hanh, bác nữ sĩ Ngân Giang, bác Trinh Đường trước khi về lại Hải Phòng. Có một điều tôi băn khoăn áy náy trái ý sai lời với bác Huy Cận không trao thư “tận tay” cho bác Giáng vì tôi còn ở lại miền Bắc cho tới tháng 6-1997 mới về lại trong Nam. Nên chi tôi photocopy gấp gởi ngay bản phụ vào cho anh Nguyễn Đăng Trình kịp đăng tải trên tạp chí Thời Văn, lúc đó bác Bùi Giáng bất ngờ đọc bài thơ của bác Huy Cận gởi tặng trên trang sách mới in, sẽ hài lòng và cảm động xiết bao!

Đặc san chuyên đề về Thi sĩ Bùi Giáng dịp này tôi cảm tác bài thơ: Rong chơi giữa đôi bờ mộng thực, phát họa sơ thảo vài nét chân dung Trung niên thi sĩ, lại được đăng chung cùng hội cùng thuyền.


Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ Bùi Giáng, chúng ta không thể dùng ngôn ngữ để lột tả hết được cái “bất khả tư nghì” đó, chỉ mạo muội lấy vài giọt nước của biển cả đại dương mà nhấm thử, thì làm sao cho thắm thía tận cùng xương xẩu máu me. Chỉ gởi đến chút tình trong biết bao giai thoại, chia nhớ sớt nhung cho một nhóm anh em văn nghệ yêu quý thi sĩ Bùi Giáng.


Ngày bác từ giã cõi đời, tôi thật bùi ngùi thương tiếc, không đến được để thắp một nén nhang đưa tiễn, xin hương linh bác niệm tình thứ cho, mong duyên lành “ngàn thu rớt hột” nhà thơ hãy tái lai hội nhập cõi ta bà, để múa ca vi vút giữa trần gian thánh thiện này



Suối Đó – chùa Đây 20-9-2002
Đinh Hồi Tưởng


---o0o---


Vi tính: Thục Đức






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6413)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7748)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3599)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3557)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11652)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4036)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3522)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10947)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6886)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13248)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]