Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật hiện diện giữa cuộc đời

11/02/201409:02(Xem: 8459)
Đức Phật hiện diện giữa cuộc đời
Phat_Duoc_Su_1

ĐỨC PHẬT HIỆN DIỆN GIỮA CUỘC ĐỜI


Nguyễn Thế Đăng

Là những người bình thường, kinh nghiệm tâm linh thì ít ỏi và nhỏ bé, nhưng chúng ta có thể nhờ kinh luận mà cố gắng hình dung ở nơi các vị thánh, dù tầng thánh thấp nhất, Đức Phật hiện diện nơi các vị đó như thế nào.

Các vị thấy rõ con đường Phật đạo, con đường Đức Phật đã từng khéo đi (Thiện Thệ), đã chỉ bày, và các vị thường xuyên bước trên đó; con đường đúng tốt đẹp ở chặng đầu, chặng giữa, và chặng cuối cùng. Các vị thường tụng đọc kinh, tâm các vị tương ưng được với từng câu kinh. Các vị thật sự biết cái gọi là tự do giải thoát và an lạc là thế nào, nên thân khẩu ý của các vị thường tương ưng với tự do giải thoát và an lạc. Các vị thấy rõ sự Khai Thị Ngộ Nhập của Đức Phật, thấu hiểu Đại Sự Nhân Duyên mà vì đó Đức Phật ra đời và giảng nói. Khi trực tiếp ngộ nhập cái đại sự nhân duyên ấy, làm sao các vị không tin Phật Pháp Tăng thường trụ?

Chắc chắn là không thể hình dung và diễn tả nỗi con đường của các vị, con đường phong phú, bao la và sâu thẳm của Phật tánh Thường Lạc Ngã Tịnh. Chúng ta chỉ nói sơ lược như thế, vì chúng ta không biết đời sống của các vị. Chúng ta chỉ hình dung, để bắt chước, để phấn đấu nỗ lực. Ở đây, chúng ta chủ yếu nói về những người bình thường chúng ta, Đức Phật hiện diện giữa cuộc đời của chúng ta.

Chúng ta luôn luôn thấy sự hiện diện của Đức Phật, những công trình, những sự vật do sự giác ngộ và công hạnh của Đức Phật ở quanh ta. Thỉnh thoảng hay thường xuyên chúng ta đi chùa. Nếu Đức Phật không ra đời, liệu chúng ta có chùa để đến, có tượng Phật để lạy, có hương để cắm hay không. Thỉnh thoảng chúng ta mua một cuốn sách Phật giáo để đọc, nếu không có Đức Phật liệu chúng ta có biết gì về trí huệ và từ bi của chính chúng ta hay không. Có lẽ ngày nay nhiều người đeo trên thân một xâu chuỗi, một tượng Phật, một biểu tượng Phật giáo nào đó để được an tâm, được bảo vệ, được ban phước. Nếu không có Đức Phật ra đời, chúng ta có những đồ vật thiêng liêng ấy để đeo hay không. Khi chắp tay chào nhau bằng Mô Phật, có phải chúng ta đang thừa hưởng công đức và trí huệ của Đức Phật đã tích tập từ nhiều kiếp hay không. Trước một hành động, chúng ta biết xem xét đúng sai, tốt xấu theo luật nhân quả, có phải chúng ta đang làm theo lời dạy của Ngài hay không.

Nhìn vào các chùa chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Nếu không có Đức Phật và các đệ tử trực tiếp của Ngài, và từ đó những dòng truyền thừa phát xuất từ Ngài, thì các vị Tăng đã không có y để mặc, không có chùa để ở, không có những phương pháp để thực hành, thậm chí không có một cái tên, một pháp danh. Tất cả những gì đúng, tốt, đẹp chúng ta đang nói đây là do sự tích tập công đức và trí huệ của Đức Phật trong rất nhiều kiếp và công sức thực hành và hoằng hóa của các đệ tử về sau của Ngài. Không có Ngài và các đệ tử, chúng ta vẫn sống, nhưng chúng ta không thể tự nâng mình lên khỏi sự sống bản năng và vô minh của một loài sinh vật bình thường. Chúng ta, và có lẽ cả loài người, cần phải biết ơn, khi đã có được trong từ vựng của mình những chữ như giác ngộ, giải thoát, vô minh, con đường đạo….

Ngày nay đi đâu trên thế giới chúng ta cũng gặp những hình ảnh của Đức Phật, những tu viện duy trì cách thức sống Giới Định Huệ an lạc của Đức Phật, những đồ vật nhỏ nhất có được từ cảm hứng đối với Đức Phật. Đạo Phật là tôn giáo xưa nhất, thọ mạng lâu dài nhất còn tồn tại với loài người. Đó là do sự tích tập công đức và trí huệ của Đức Phật trải qua ba vô số kiếp. So sánh đại thể với tôn giáo khác, không có tôn giáo nào gồm đủ ba cái, niềm tin, trí huệ, và từ bi. Bởi thế đạo Phật đáp ứng toàn diện cho mọi nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người. Chúng ta thử nhìn xem tuổi thọ của hai triều đại Lý Trần rực rỡ nhất, chính nghĩa nhất, mỗi triều đại cũng chỉ được trên dưới 200 năm. Chúng ta thử nhìn xem những học thuyết triết học sống được bao nhiêu thập kỷ? Một hệ hình (paradigm) khoa học kéo dài được bao lâu thì bắt đầu thay đổi?

Đạo Phật tồn tại và phát triển đến ngày nay là do sự thực hành công đức và trí huệ của Đức Phật trải qua vô số kiếp. Đức Phật là một dòng sông đã bứt phá qua sa mạc của thân phận nhân loại để chảy hòa vào đại dương công đức, trí huê và từ bi của các Bậc Chiến Thắng. Đã thế, dòng sông mênh mông và bất tận đó luôn luôn có sự nhập dòng của các nhánh nhỏ khác chảy vào: những bậc thánh của đạo Phật qua mọi thời đại. Đó là một dòng sông chảy mãi với số phận của tất cả chúng sanh. Ngoài ra, dòng sông ấy còn được biết bao rãnh nước, biết bao giọt nước của người bình thường như chúng ta đổ vào, thấm vào suốt hơn 2.500 năm nay. Ai bảo một buổi thiền định, một thời tụng kinh, một câu niệm Phật… không phải là một giọt nước thấm vào dòng sông bất tận mà chúng ta gọi là Phật giáo?

Đạo Phật có mặt trên đời và phát triển như thế bởi vì mỗi người chúng ta đều có được một hình ảnh giác ngộ của một con người đã giác ngộ. Hơn nữa, mỗi một người chúng ta đều có một con người giác ngộ ở trong lòng, một Phật tánh ở nơi đáy của thân tâm: “Ta là Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”. Phật tánh ấy là nhu cầu tối hậu của chúng ta, nghĩa là đạo Phật, con đường đi đến, phương pháp triển khai Phật tánh ấy, là nhu cầu tối hậu của chúng ta. Cho nên bất cứ khi nào chúng ta làm một điều tốt, lúc đó chúng ta đang ở trên con đường đạo Phật. Bất cứ khi nào chúng ta tìm kiếm hiểu biết, dù hiểu biết trong bất cứ lãnh vực nào, lúc đó chúng ta đang tiếp cận với ánh sáng trí huệ của đạo Phật. Bất cứ lúc nào chúng ta phát khởi được tình thương vô ngã, lúc đó chúng ta đang ở trong đại dương từ bi của chư Phật, đang chia sẻ một tâm từ bi của chư Phật, dù đó chỉ là sự chia sẻ của một giọt nước biển. Bất cứ khi nào chúng ta sống vì lợi lạc của người khác, lúc ấy chúng ta đang sống trong biển đại nguyện của chư Phật.

Hạnh phúc thay cho chúng ta khi thấy mình luôn luôn sống trong đạo Phật. Hạnh phúc thay cho chúng ta khi mình thấy luôn luôn sống trong ơn nghĩa của Đức Phật. Sống như vậy, rồi có một ngày nào chúng ta sẽ cảm nhận thực sự ơn nghĩa ấy như ngài A-nan và thốt lên lời thệ nguyện như ngài đã làm. Lời thệ nguyện của ngài A-nan chúng ta vẫn tụng đọc mỗi sáng. Ở đây chỉ trích ra đoạn đầu tiên. Đó là lời thệ nguyện kim cương, lời thệ nguyện hạnh phúc của người con Phật:

Diệu trạm tổng trì Bất Động Tôn
Thủ Lăng Nghiêm Vương đời ít có
Tiêu điên đảo tưởng trong ức kiếp
Chẳng trải tăng kỳ được Pháp thân.
Nay nguyện đắc quả thành Bảo Vương
Về độ như thế hằng sa chúng
Đem thân tâm phụng sự nhiều cõi
Thế mới gọi là báo Phật ân.
Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho
Đời ác năm trượt thề vào trước
Như một chúng sanh chưa thành Phật
Rốt chẳng nơi kia nhận Niết-bàn….

(Văn Hóa Phật Giáo số 152)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2011(Xem: 2588)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
13/01/2011(Xem: 21625)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
05/01/2011(Xem: 3913)
Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, xá lợi của Ngài được chia thành tám phần cho tám lãnh thổ như Vương Xá (Rājagaha), Vesāli,, thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu), Allakappa, Rāmagāma, Vethadīpa, Pāvā và Câu-thi-na (Kusinārā). Để có nơi tôn kính thờ xá lợi của các bậc thánh, kiến trúc của các ngôi tháp bắt đầu phát sanh và tiến hóa. Nhiều thế kỉ trôi qua, Phật giáo theo thời thế mà thăng trầm lên xuống và xá lợi hầu hết cũng bị thất lạc. Vào thế kỉ XX, các nhà khảo cổ trong khi khai quật vùng Taxila và ngọn đồi Long Thọ (Nāgārjunakondā) đã tìm thấy các viên xá lợi thật của của Đức Phật và hiện nay được thờ tại Sārnātha. Tác giả Tham Weng Yew đã viết về lịch sử và ý nghĩa của việc thờ xá lợi, tiến trình thăng hóa các đền tháp thờ cùng các hình ảnh minh họa. Tỳ-kheo-ni Giới Hương đã phát tâm dịch ra tiếng Việt và đây là lần xuất bản thứ 2.
05/01/2011(Xem: 2595)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: "Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa" Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:
04/01/2011(Xem: 52882)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
21/12/2010(Xem: 2038)
Năm đầu tiên (528 TTL): Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đó, Ngài giảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ năm anh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).
24/11/2010(Xem: 12386)
Bộ Ảnh về Cuộc Đời Đức Phật, Bộ hình phác họa về lịch sử, cuộc đời đức Phật do một họa sĩ người Thái Jamnuon Jhanando thực hiện. Những lời giải thích do cá nhân chúng tôi chú thích, nếu có sai sót xin nhờ quý vị chỉnh sửa dùm cho đúng. Kính tri ân…
16/10/2010(Xem: 7347)
Đây là bài thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức, tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy... Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
16/10/2010(Xem: 7044)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
12/10/2010(Xem: 5083)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]