Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh mắt Thế Tôn

30/08/201307:11(Xem: 6104)
Ánh mắt Thế Tôn

Sakya_Muni_64






Theo quan niệm dân gian, đôi mắt mỗi người được coi là cửa sổ của tâm hồn. Thế thì ai ai cũng có hai cửa sổ. Cửa sổ rộng rãi thì nhà được sáng sủa, thoáng mát; cửa sổ chật hẹp thì nhà bị u tối, nóng bức. Cửa sổ là phương tiện giúp ta nhìn ra bên ngoài, thấy cảnh thấy người mà mở lòng giao tiếp. Cửa sổ còn có tác dụng làm tăng vẻ đẹp của căn nhà, nên thường được trang trí lộng lẫy, gây cảm xúc cho chủ thể và đối tượng:

“Ai bảo anh là thi nhân cho đời em đau khổ

Ai bảo em ngồi bên cửa sổ cho vướng nợ thi nhân”

Cửa sổ của căn nhà là như vậy, còn cửa sổ của tâm hồn thì sao? Xưa nay biết bao ngôn từ hoa mỹ hay ngữ khí e dèø trước ánh mắt của từng người tại thế:

“Người khôn con mắt đen sì,

Người dại con mắt nửa chì nửa thau”

“Những người ti hí mắt lươn,

Trai thì trộm cướp gái buôn chồng người”

“Những ai con mắt lá răm,

Chân mày lá liễu đáng trăm quan tiền”

Cụ thể nhất là theo phong tục Việt Nam, ông cha ta thường nhờ người mai mối dẫn con đi coi mắt vợ chứ không bao giờ đi coi mũi vợ, tai vợ, hay miệng vợ. Vì sao? Vì đôi mắt kia hẳn đã lưu lộ ít nhiều sắc thái thẩm mỹ, hay ẩn tàng tư chất kế thừa của một dòng tôc. Biện pháp tuyển chọn dâu con như thế tuy có vẻ phiến diện nhưng không kém phần thực dụng và hiệu quả.

Thế Tôn là bậc Đạo sư của nhân thế, là Đấng cha lành của muôn loài. Với Ngài thì không hề thấy khuôn mẫu nào là mày ngài mắt phượng. Ánh mắt là ánh mắt, cũng như con người là con người; không có con người Bà-la-môn hay con người Sát-đế-lỵ. Chỉ có ánh mắt từ bi, trí tuệ hay sân hận, vô minh; tâm hồn vị tha, lân mẫn hay ích kỷ, bạo tàn. Có thể nói suốt đời Thế Tôn, từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, rồi xuất gia tu tập, hàng phục chướng duyên, chứng nhập Phật trí, thuyết pháp độ sanh, cho đến lúc sắp nhập niết bàn, nằm giữa hai cây Sa-la, Ngài luôn tiếp xúc với vạn loại hữu tình bằng ánh mắt từ bi vô lượng: Từ nhãn thị chúng sanh.

Ngay từ thời niên thiếu, thái tử Tất-đạt-đa đã thể hiện lòng thương yêu chim muông thú vật. Một hôm, Tất-đạt-đa và Đề-bà-đạt-đa đang chơi trong hoa viên, thấy đàn thiên nga bay qua, Đề-bà-đạt-đa trương cung bắn rơi một con. Tất-đạt-đa nhanh tay bế chim vào lòng, vuốt ve âu yếm. Đề-bà-đạt-đa nhào tới đòi chủ quyền. Tất đạt-đa không trả lời, chỉ đưa mắt nhìn người em họ với mật ý:

“Hình phạt, ai cũng kinh,

Sinh mệnh, ai cũng tiếc,

Lấy ta suy ra người,

Chớ giết, chớ bảo giết.”

Đến khi trưởng thành, sau khi thắng giải tranh tài kết hôn với công chúa Da-du-đà-la, Tất-đạt-đa ngồi trên lưng bạch tượng diễu qua kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, Đề-bà-đạt-đa thua cuộc tỷ thí, ganh tức trong lòng, và cũng để khoa trương sức mạnh phi thường của mình, xông ra cản đường, tóm lấy yên cương, đấm chơi vào đầu voi một cú, thế là cả voi lẫn thái tử té nhào xuống đất. Tất-đạt-đa đưa tay xoa nhẹ chỗ voi bị đấm, đỡ nó đứng lên, rồi quay nhìn Đề-bà-đạt-đa bằng ánh mắt từ hòa, khuyến cáo:

“Hại người không ác tâm,

Thanh tịnh và vô tội,

Tội ác dội kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi.”

Sau khi chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác dưới cội Bồ-đề, sợ chánh pháp được tuyên dương sâu rộng, ác pháp khó bề tung hoành, ba ái nữ kiều diễm của Mara là Rati, Arati và Trishna ra sức thuyết phục Thế Tôn dừng bước bằng những lời hát ca quyến rủ, ngữ nghĩa nồng nàn:

“Bạn ơi, mùa xuân đến rồi, mùa của tình tự yêu đương, của phấn hương tú lệ. Thảo mộc đang bừng rộ nở hoa; chúng ta phải vui lên nào. Đôi mắt của bạn đẹp làm sao, chúng lung linh như ánh đèn huyền diệu; bạn có nhiều biểu hiện vạn năng. Hãy ngắm chúng em. Chúng em được sinh ra đời để mang lại nguồn vui, nguồn hạnh phúc cho cả nhân loại và chư thiên.”

Trishna cất giọng ngâm:

“Hỡi người yêu quý của em ơi,

Từng cánh hoa xinh trải khắp cây,

Hương hoa thoang thoảng quyện đâu đây,

Chim reo vui nhộn vang cành lá,

Như trong lồng vàng hót ngất ngây.

Từng cánh ong vờn hoa nhởn nhơ,

Đê mê hút trọn nhụy hoa mơ,

Kìa những dây leo ôm cổ thụ,

Vươn gió hờn ghen động phất phơ,

Giữa cảnh rừng xanh đẹp ý thơ,

Ơi hồ nước bạc lặng như tờ,

Như nụ cười tình duyên thiếu phụ,

Mừng đón trăng về thỏa ước mơ.”

Thế Tôn vẫn thản nhiên, mỉm cười với ánh mắt cảm thông hậu ý nhưng không kém phần chuyển tải nghĩa lý vô thường:

“Nhìn hình hài xinh đẹp,

Một khối nặng khổ đau,

Bịnh tật nhiều lo nghĩ,

Có gì vĩnh cửu đâu!”

Rồi một hôm, trên đường về Xá-vệ, Thế Tôn đi ngang qua một cánh đồng vừa thu hoạch. Điền chủ Bharadvaja cùng gia nhân đang mở tiệc ăn mừng linh đình. Thấy Thế Tôn từ xa đi đến, Bharadvaja chạy ra dang hai tay chận Thế Tôn, nói:

- Ông đạo, mời ông đi ngay cho. Ở đây chúng tôi đang làm việc, đang vui mừng với thành quả lao động cày bừa của chúng tôi.

- Ta cũng đang vui mừng với thành quả cày bừa của ta. Thế Tôn mỉm cười nói.

- Ông mà cũng có trâu bò, cày bừa, ruộng nương và hạt giống?

- Có chứ!… Hiểu biết trong sạch là hạt giống tuyệt vời mà ta gieo trỉa. Tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày kiên cố: lưỡi cày là trí tuệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con bò thiến khỏe mạnh kéo cày. Ta cày đến đâu là ái dục trốc gốc như cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ mùa ta thu hoạch chính là hoa trái vô sanh.

Thấy Bharadvaja đứng sững sờ, rồi sụp lạy. Thế Tôn mỉm cười, Ngài thường mỉm cười mỗi khi xúc sự, và nhìn ông với ánh mắt cảm hóa nồng nàn:

“Từ bi thắng sân hận,

Hiền thiện thắng hung tàn,

Bố thí thắng xan tham,

Chân thật thắng hư ngụy.”

Cũng tại thành Xá-vệ, Vũ nữ Kuvalada rất ngạo mạn về sắc diện tú lệ và vũ điệu bốc lửa của mình. Một hôm, đang quay cuồng trên sàn diễn với hàng ngàn người vây quanh bên dưới, chợt thấy Thế Tôn đi tới, Kuvalada xoay người chỉ tay nói lớn: “Các người thấy chưa? Ngay cả 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Gotama cũng chưa bằng cái nheo mắt của ta.”

Thế Tôn bình thản theo từng bước thiền hành. Gần tới sân khấu, Thế Tôn ngước mắt mỉm cười, nhìn vữ nữ với hàm ý:

“Thành này xây bằng xương,

Trét tô bằng thịt máu,

Già chết và kiêu mạn,

Hủy báng chứa nơi đây.”

Tay chân của Kuvalada bỗng nhiên rũ rượi, mặt mày choáng váng, ngã quỵ xuống sàn. Khán giả nhốn nháo; có người lớn tiếng nói: “Cho đáng kiếp chua ngoa, hỗn láo!” Về sau, nàng quy Tam bảo và là một trong những cận sự nữ trung kiên của Tăng đoàn.

Buồn nhất là anhh chàng Chí Thiện, một thanh niên Phật tử thuần thành, muốn xuất gia theo Phật, cầu đạo giải thoát, nhưng bị Mật Thủ, người bạn chí thân mai mỉa, cho rằng đi tu là ngu dại, là ăn bám xã hội, là bất trung với xã tắc, bất hiếu với tổ tiên, bất nghĩa với vợ con, trốn tránh trách nhiệm với đồng bào đồng loại v.v… Chí Thiện đâm ra hoài nghi, đau buồn, đến tinh xá Kỳ Viên không dám gặp Thế Tôn. Đọc được tâm tư phiền muộn của Chí Thiện, Thế Tôn nắm tay chàng dẫn về tinh xá, nói:

- Con có gì vướng kẹt trong lòng thì tâm sự với Thầy, đừng để lâu ngày thành nội kết. Con biết đấy: Giang sơn dễ đổi, tập khí khó dời!…

Chí Thiện đưa tay lau nước mắt, đảnh lễ Thế Tôn, thuật lại tự sự, và nói:

- Con hoang mang quá, bạch Thế Tôn!

- Hừ!… Có vậy mà hoang mang. Thế Tôn nhìn Chí Thiện, mỉm cưới, rồi vỗ vai chàng khẳng định:

“Người ngu biết mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí,

Người ngu cho mình trí,

Thật đáng gọi chí ngu!”

Chí Thiện lại lau nước mắt, khấu đầu dưới chân Thế Tôn một lát, rồi đứng lên, và được phép khoác áo màu gạch từ đó.

Tìm hiểu cuộc đời Thế Tôn, ta thấy ánh mắt Ngài lúc nào cũng trao truyền năng lượng và sưởi ấm lòng người qua mọi tình huống. Năm mới, ước mong vạn loại hữu tình và vô tình đều được an bình trong ánh từ quang của Đạo Phật.

(Tịnh Minh, đã đăng trong Tuần Báo Giác Ngộ, số 366, ngày 1/2/2007, Mừng Xuân 2007, Đinh Hợi)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/05/2016(Xem: 11914)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
24/05/2016(Xem: 8745)
Sáng Rằm Tháng Tư Đại Lễ Phật Đản 2640- PL: 2560- DL: 2016 Ghi nhận bằng hình ảnh qua các tự viện ở thành phố Nha Trang - Chùa Long Sơn (đường 23 tháng 10) - Chùa Nghĩa Hòa (đường 23 tháng 10) - Chùa Thiên Hòa (đường Yersin) - Chùa Vương Xá (đường Phương Sài) - Tổ Đình Nghĩa Phương (đường Lý Thánh Tôn) - Chùa Kỳ Viên Trung Nghĩa (đường Sinh Trung) Tâm Không Vĩnh Hữu
09/04/2016(Xem: 15483)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
07/04/2016(Xem: 7695)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện “Thị hiện”, là muốn và đến các quốc độ Trời, Người (cõi người nhiều hơn) đã định sẵn trong tâm để hóa độ. Sau đó, quán chiếu vào để tìm kiếm, chọn cho mình một người Mẹ trong những gia đình có tâm từ bi, thánh thiện, đạo đức, rồi nhập Thánh thai. Sau khi chào đời, bản thể lớn khôn, trí tuệ cao vời, liền Thị hiện vào dòng đời, dấn thân, lê gót khắp nơi trên mọi nẻo đường bản xứ mình, giáp mặt với mọi giai cấp, để hiển bày các đạo lý mang tính Thánh giáo, Thiện đạo, Thiện nghiệp, giáo lý giải thoát vốn đã và đang có mà khai thị, thị giáo cho các chủng loại chúng sanh Trời, Người thật bình đẳng, ai cũng được thăng tiến lên các nấc thang Chân, Thiện, Mỹ, giải thoát siêu lên các cảnh giới Phật, Thiên, Tiên sau khi xả bỏ ba
27/12/2015(Xem: 8967)
Lễ Vía Đức Phật A Di Đà 2015 tại TV Minh Quang Sydney, Úc Châu, Chủ Nhật 26-12-2015
06/10/2015(Xem: 52040)
Từ Bi, có nghĩa là tình thương yêu rộng lớn đối với muôn loài hữu tình chúng sanh(loài người và súc vật). Tình thương rộng lớn này được xuất phát từ trong tâm, thể hiện qua lời nói và hai hành động: TỪ và BI : Bang vui. Cứu khổ.
25/08/2015(Xem: 3849)
Cung trời Đâu Suất giáng phàm Sanh vào Tịnh Phạn, Cồ Đàm vương gia Chánh Thái tử Sĩ Đạt Tha Sống trong điện ngọc tháp ngà an vui Nhưng lòng Thái tử không nguôi Hằng luôn suy gẫm thân người mong manh Du ngoạn ngoại thành Giải khuây dạo bốn cửa thành Người già run rẩy thân hình kém suy Người bịnh ốm yếu sầu bi Người chết lạnh ngắt thân gầy xanh xao Thân nhân than khóc kêu gào Giàn thiêu hỏa táng xiết bao đau lòng
13/08/2015(Xem: 8598)
Một bài phóng sự của nữ ký giả Nathalie Lamoureux về Lâm-tì-ni (Lumbini), khu vườn nơi đản sinh của Đức Phật, đã được đăng tải và đưa lên trang mạng của tạp chí hàng tuần Le Point của Pháp số ngày 21 tháng 7 năm 2015. Lâm-tì-ni đã từng rơi vào sự quên lãng của con người từ bao thế kỷ và không còn ai biết là ở đâu. Mãi đến năm 1896, dựa theo những lời thuật lại trong nhật ký của nhà sư Trung Quốc Pháp Hiền, sau chuyến hành hương và tu học ở Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ V, các nhà khảo cổ người Anh đã khám phá ra một trụ đá của hoàng đế A-dục (từ -304 đến -232, trước Tây Lịch) cạnh một ngôi làng nghèo nàn là Rummindei của xứ Népal. Trên trụ đá có ghi khắc các dòng chữ cho biết Đức Phật đản sinh ở nơi này.
26/07/2015(Xem: 5564)
Bất cứ một tư tưởng triết học nào cũng đều chịu ảnh hưởng của bối cảnh xã hội, của nền văn hoá và của những tư tưởng triết học khác. Từ đó, tư tưởng của một triết gia có khi chịu ảnh hưởng của những người đi trước hoặc đương thời mà phát triển và quảng diễn thêm, nhưng cũng có khi phản kháng lại, hoặc phê bình để đi đến chỗ toàn thiện, hoặc để bênh vực cho tư tưởng của mình.
02/06/2015(Xem: 12975)
Trước khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để người đọc nhận định dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức Phật Thích Ca sanh vào năm 624 trước Tây Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây Lịch. Sáu trăm hai mươi bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy tính đến nay là năm 2015 thì Đức Phật đã ra đời được 2,639 năm và chiếu theo Phật lịch khởi đầu từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544 trước TL) thì Ngài đã nhập Niết Bàn được 2,559 năm. Việt Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên ... từ xưa đều làm Lễ Phật Đản vào ngày mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành cho ngày Lễ Phật Đản là "Ngày mồng Tám tháng Tư" đã lưu truyền hằng bao thế kỷ, trở thành phong tục tập quán cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của mọi người kể cả người theo hay không theo Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567