Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh

29/08/201105:03(Xem: 3944)
07. Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Vua Chuyển Luân Ðảnh-Sanh

Một hôm tại Trúc-Lâmtịnh xá, sau khi kinh hành xong, đức Phật ngồi trên pháp tòa, nhìn khắp đạichúng một lượt, rồi từ kim khẩu của Ngài phát ra lời pháp âm: "Ta nhớ cómột kiếp nọ trong quá khứ, nhằm thời Ðại kiếp. Con người của thời Ðại kiếp đósống đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Lúc ấy có một vị vua nhờ nhiều kiếp tu hànhtích lũy phước đức mà được làm Chuyển-luân Thánh-vương, tên là Ðảnh-Sanh.

Một hôm nhân ngày rằm,sau khi tắm gội sạch sẽ, vua Ðảnh-Sanh lên lầu độ ngọ trai. Bỗng nhiên từphương Ðông bay đến một bánh xe bằng vàng có ngàn căm, nằm trước mặt nhà vua.Vua Ðảnh-Sanh ngạc nhiên thầm nghĩ rằng, ta đã từng nghe các bậc tiên nhân ngũthông giảng nói: "Như có bánh xe bằng vàng ngàn căm tự nhiên xuất hiệntrước vị vua dòng Sát-đế-lợi, thì nên biết đó là y báo thù thắng của bậcChuyển-luân Thánh-vương".

Ðể xem thử thật hư rasao, nhà vua quỳ gối, tay trái nâng bánh xe, tay phải bưng lư hương nâng trướcngực, ngước mặt lên trời khấn nguyện rằng: "Nếu quả thật bánh xe nầy làvật của bậc Chuyển-luân Thánh-vương, thì hãy tự bay đi một vòng trong khắp quốcđộ, rồi trở lại đây nằm ngay trước mặt ta".

Nhà vua vừa khấn dứtlời, bánh xe vàng ngàn căm kia vụt khỏi tay nhà vua, bay lên hư không lượn mộtvòng khắp mười phương cõi nước, rồi trở lại nằm yên trên tay nhà vua. VuỪảnh-Sanh vui mừng tin rằng, mình sẽ là Chuyển-luân Thánh-vương.

Rồi vào một ngày rằmkhác sau đó chẳng lâu, trong lúc nhà vua thọ ngọ trai, có một thớt voi trắnghình dáng uy nghiêm, từ thân lông phảng phất ra mùi hương thơm của hoa sen, đếnđứng trước cửa thành. Lính giữ thành báo tin, ai nấy đều lấy làm lạ. Các quanvăn võ hiệp cùng các tượng sư giỏi nhất của triều đình tập trung cùng nhau dùnghết phương kế điều phục voi để đem dâng vua hầu được ban thưởng, nhưng đều bấtlực. Cuối cùng họ triệu thỉnh nhà vua đến. Vừa thấy nhà vua ngự đến, voi liềntỏ vẻ cung kính quỳ mọp. Mọi người đều lấy làm kinh ngạc. Nhà vua hướng về quầnthần phán rằng: "Ta đã từng nghe các vị tiên nhân ngũ thông giảng nói, hễcó voi trắng phảng phất hương thơm xuất hiện quỳ mọp trước vua, thì phải biếtvị ấy là vua Chuyển-luân Thánh-vương".

Nói xong, nhà vua quỳxuống đất, tay mặt nâng lư trầm khói hương nghi ngút, tay trái ấn vào ngà voi,ngước mặt lên trời mà khấn: "Nếu quả thật voi báu nầy là của bậcChuyển-luân Thánh-vương, thì voi hãy đi một vòng khắp sơn hà thiên hạ rồi trởvề đây quỳ mọp trước ta". Vua vừa dứt lời, voi cúi đầu xá ba xá rồi quayđi nhanh như chớp. Trong lúc triều thần bá quan còn đang ngơ ngác ngẩn ngườinhìn nhau, thì hình dáng của voi không còn thấy đâu nữa cả. Quan cận thần vẫnyên lặng nghiêm chỉnh đứng hầu. Chẳng bao lâu voi trắng lại hiện về quỳ mọptrước nhà vua.

Vua Ðảnh-Sanh vô cùngmừng rở tin biết mình sẽ là Chuyển-luân Thánh-vương. Trước hiện tượng kỳ diệunhư vậy, bá quan văn võ đều quỳ khấu đầu trước vua tung hô chúc tụng:Thánh-thượng vạn vạn tuế! Vạn vạn tuế.

Rồi sau đó chẳng baolâu, cũng vào ngày trai, vua tắm gội sạch sẽ, mặc áo chỉnh tề, lên lầu vái vọngbốn phương, thì bỗng nhiên từ trời cao bay xuống một con ngựa màu xanh da trời,chói sáng như làn điện chớp, uy phong đến trước vọng nguyệt đài cúi đầu váichào nhà vua. Cũng như những lần trước, lần nầy vua Ðảnh-Sanh thấy hiện tượngkỳ lạ xuất hiện, liền suy nghĩ và cũng có những cử chỉ khẩn nguyện như khi thấyvoi trắng. Sau lời khấn nguyện của vua, ngựa liền phi khắp cả sơn hà một lượtrồi trở về quỳ mọp trước vua Ðảnh-Sanh. Nhà vua mừng rỡ, càng tự tin rằng mìnhsẽ là Chuyển-luân Thánh-vương.

Khoảng thời gian sauđó chẳng bao lâu, cũng trong ngày trai, một trang Nữ Bảo xuất hiện, hình dungđoan chánh, đẹp đẽ tuyệt vời, tưởng chừng hơn cả bao nhiêu vẻ đẹp hương trờisắc nước tô điểm cho nàng. Từ thân thể nàng xông ra mùi thơm thiên đàn, khimiệng nói phát ra mùi thơm hoa sen. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi của nàng NữBảo tầm xa đến hơn chín cây số ngàn. Nàng Nữ Bảo thông minh tuệ trí, ăn nói dịudàng. Mỗi khi tay nàng đụng vào áo vua thì biết được nhà vua nghĩ gì, muốn gì,tình trạng sức khỏe của nhà vua biến chuyển thăng trầm ra sao! Vua Ðảnh-Sanhđược nàng Nữ Bảo đến hầu hạ, tự nghĩ rằng, trước kia những vị tiên nhân ngũthông thường giảng nói: Những bậc Chuyển-luân Thánh-vương thường được có nhânvật Nữ Bảo hiện đến hiến dâng phò giúp. Ta nay được Nữ Bảo, chắc ta sẽ làChuyển-luân Thánh-vương.

Tiếp theo đó chẳng baolâu, có vị thần Chủ-Tạng xuất hiện đến yết kiến vua Ðảnh-Sanh. Vị thần nầy quảnthủ tất cả của thất bảo trong thiên hạ. Mắt có thể nhìn thấu suốt lòng đất,xuyên suốt biển sâu núi rừng. Vua Ðảnh-Sanh, muốn thử tài năng của vị thầnChủ-Tạng nầy, nên cùng với thần ngồi thuyền ra biển cả và nói: "Nay tamuốn lấy trân bảo lạ, nhà ngươi có cách nào giúp ta toại nguyện không?"

Thần Chủ-Tạng nghe nhàvua phán xong, liền lấy hai tay khuấy nước biển, trên mười đầu ngón tay củathần hiện ra mười kho đầy trân bảo, và nói: "Muôn tâu Thánh-thượng! Tùy ýngài lấy dùng, còn bao nhiêu tôi sẽ trả về biển cả". Vua Ðảnh-Sanh tự tinbiết mình được phước báu của bậc Chuyển-luân Thánh-vương.

Tiếp theo sau đó chẳngbao lâu, lại có vị thần Chủ-Binh xuất hiện, uy phong lẫm liệt, thông suốt thaolượt binh thơ, tấn thối vẹn toàn, trăm trận trăm thắng. Vua Ðảnh-Sanh được thầnChủ-Binh tận lực phò trì, lòng vô cùng hoan hỷ, tự nghĩ mình có phần phướcChuyển-luân Thánh-vương.

Sau khi vua Ðảnh-Sanhđược thất bảo, lại có voi báu, ngựa báu, và tướng thần, nữ bảo không thiếu móngì, nhà vua phán với các triều thần bá quan văn võ rằng: "Nay bảy báutrong cõi Diêm -phù-đề đã thuộc về ta, mưa thuận gió hòa, nhân dân an lạc. Taphải làm gì nữa đây?"

Các quan triều thầntâu rằng: "Muôn tâu Thánh-thượng! Thiên hạ thế gian đã quy thuận thánhtriều, nhưng Phất-Bà-Ðề là vị chủ tể phương Ðông vẫn chưa thuận phục. VậyThánh-thượng nên đem quan đến đó mà làm cho họ khuất phục". Nghe theo lờitâu, nhà vua đem bảy báu và quân binh đến phương Ðông chinh phục. Vừa nghe vuỪảnh-Sanh đến, Phất-Bà-Ðề và dân chúng đều khấp khởi vui mừng, quỳ kính nghinhđón, xin quy thuận.

Các triều thần lại tâuvới vua Ðảnh-Sanh rằng: "Cõi Diêm-phù-đề ngài đã thống lãnh, Phất-Bà-Ðề ởphương Ðông ngài cũng đã khuất phục, nhưng Cô-Ðà-Ni chủ trì ở phương Tây chưaquy thuận, mong ngài hãy đem bảy báu và quân binh đến đó để điều ngự họ. KhiCô-Ðà-Ni và dân chúng phương Tây nghe vua Ðảnh-Sanh và quân binh đến, thảy đềutỏ lòng kính quý vui mừng nghinh tiếp, xin quy thuận.

Cũng như những lầntrước, vua Ðảnh-Sanh được Uất-Ðàn-Việt ở phương Bắc và dân chúng nơi đây nghinhđón xin quy thuận. Thế là cõi Diêm-phù-đề và bốn phương thiên hạ đều thần phụcvề một mối, dưới sự trị vì của vua Ðảnh-Sanh.

Các quan triều thầnlại tâu với vua Ðảnh-Sanh rằng: "Bốn phương thiên hạ trong cõi Diêm-phù-đềđã nằm dưới tay thống trị của Thánh-thượng. Nay chỉ còn có chư Thiên cõi trờèao-lợi, từng trời thứ ba mươi là cõi trời phước lạc sung túc; tưởng ăn, thìthức ăn cao lương mỹ vị liền hiện đến; tưởng mặc, thì y phục đẹp tốt hoa lệliền hiện kề; mạng sống lâu dài, thân hình đẹp đẽ trang nghiêm, không cõi trờinào sánh bằng, mà cho đến nay họ vẫn chưa quy thuận Thánh-thượng. Vậy hạ thầnchúng tôi dám mong Thánh-thượng nên đem bảy báu, ngàn thái tử và quân binh đếnđó chinh phục".

Vua Ðảnh-Sanh tiếp tấuthực hành. Nhờ phước tu nhiều kiếp, uy đức cao dày sung mãn, nhà vua mang quânbinh đằng vân vượt lớp lớp tầng không đến cửa trời Ðao-Lợi. Nơi đây, nhà vuathấy một cây đại thọ to lớn xanh tươi rậm rạp hoa trái muôn mầu, lóng lánh ánhkim cương, gió thoảng hơi mát, phảng phất mùi hương thơm nhẹ, khiến cho lòngnhà vua và quân sĩ cảm thấy khoan khoái thanh thoát, quên bao nỗi mệt nhọctrong thời gian qua đã phải vượt lớp lớp tầng mây mới đến được chốn nầy.

Thấy thế, vuỪảnh-Sanh hỏi nguyên do. Vị đại thần đáp: "Ðó là cây Ba-Lị-Chất-Ða. Nơicây nầy, hằng năm chư tiên thiên cõi trời Ðao-Lợi tập họp vui chơi hưởng lạcsuốt trong ba tháng mùa hạ".

Nhà vua lại thấy mộtkhối trắng bạc như đám mây ngàn, liền hỏi. Một trong những vị đại thần đáp:"Ðó là Thiên-Pháp-Ðường. Nơi mà chư Thiên cõi trời Ðao-Lợi thường hội họpđể bàn việc thiên đình và nhân gian thế sự".

Vị đại thần vừa tâuxong, thì trời Ðế-Thích, vị vua của cõi trời Ðao-Lợi và chư thiên đình tiên nữhiện đến đều cung kính chấp tay lễ chào nghinh đón vua Ðảnh-Sanh. Tiếp theo,vua trời Ðế-Thích mời vua Chuyển-luân Ðảnh-Sanh vào Thiên-Pháp-Ðường, rồi thứtự theo chỗ chủ khách cùng ngồi.

Lúc ngồi đối diện,tướng mạo của hai vua đoan trang tốt đẹp giống nhau. Vua trời Ðế-Thích nhờnhiều kiếp thọ trì đọc tụng kinh điển Ðại-thừa, diễn nói chánh pháp, tu tậppháp lành, hộ trì Phật Pháp, vun bồi công đức lớn, nên được thân hình và cõinước trang nghiêm an lạc.

Trong khi đối diện đàmđạo với vua trời Ðế-Thích, cảnh tiên thiên tuyệt mỹ an nhàn, vua Ðảnh-Sanh khởitâm suy nghĩ rằng: "Ta có nên chiếm lấy cõi trời Ðao-Lợi nầy để ở lại đâyluôn không?

Vua Ðảnh-Sanh vừa khởivọng niệm như vậy, liền đọa trở lại cõi trần gian Diêm-phù-đề. Nhà vua chánchường đau khổ tiếc nuối cảnh tiên thiên, ôm lòng hoài vọng nhớ thương xót xasự ly biệt giữa người và thiên giới, rồi sầu não phát bệnh mà chết.

Ðức Phật nói với đạichúng rằng: "Trời Ðế-Thích thuở ấy chính là tiền thân đức Phật Ca-Diếp.Còn vị vua Chuyển-luân Thánh-vương Ðảnh-Sanh kia chính là tiền thân của ta đâyvậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2010(Xem: 5021)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
08/10/2010(Xem: 6740)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật. Vài nhà truyền giáo nào đó tiếp cận các Phật tử và nói rằng Phật không phải là một vị thần mà chỉ là một con người. Ngài đã chết và không còn nữa. Vậy thì làm sao người ta có thể tôn sùng một người cũng đã chết? Những chúng ta phải hiểu rằng, Đức Phật được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, vị thầy của chư thiên và loài người. Bất cứ khi nào chư thiên có gặp khó khăn, họ đều gặp ngài để xin lời khuyên. Thế rồi họ nói rằng vị chúa tể của họ vẫn hằng sống, và đó là lý do tại sao người người cầu nguyện với Ngài.
06/10/2010(Xem: 2686)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
03/10/2010(Xem: 2377)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
30/09/2010(Xem: 2959)
Tiếng Phạn Sarìra, PàliSarìra có nghĩa làtử thi, di cốt:dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân.Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốthay Phật xá lợi.Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại. Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi làTháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi làHội xá lợi.
29/09/2010(Xem: 5777)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
25/09/2010(Xem: 10145)
Theo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A Di Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó làPhật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh. Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi LạcBang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻchúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
22/09/2010(Xem: 12584)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
17/09/2010(Xem: 5090)
Trung đạo (madhyamŒ-pratipad) là con đường tránh xa hai cực đoan: hưởng thọ dục vọng và tu tập khổ hạnh, nó là kinh nghiệm rút ra từ bản thân của Ngài, sau khi sống hưởng thụ trong hoàng cung, và trải qua 6 năm tu khổ hạnh, nhờ con đường này mà Ngài thành đạt giác ngộ và giải thoát dưới cội cây Bồ đề.
17/09/2010(Xem: 2384)
Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời.Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”... Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]