Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Hai Nhà Vua Hiền Ðức

29/08/201105:03(Xem: 3796)
05. Hai Nhà Vua Hiền Ðức

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Hai Nhà Vua Hiền Ðức

Một hôm đức Phật đangở trong vườn Trúc-Lâm thuộc thành Vương-Xá, giải đáp những điều thắc mắc chocác đệ tử, thì bất ngờ vua nước Câu-Tát-La đến xin được ra mắt hầu thăm Phật.Vừa trông thấy Phật, vua Câu-Tát-La thành kính cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật.Ðảnh lễ xong, vua Câu-Tát-La ngồi qua một bên. Ðức Phật hướng về nhà vua ôn tồnhỏi: "Bệ hạ có việc chi mà ngự giá đến đây một cách bất thường như thếnày?"

Nhà vua đáp:"Bạch đức Thế-Tôn! Vừa rồi con phê một vụ án khó xử, phải vận dụng nhiềutâm trí, phí nhiều thì giờ mà lòng vẫn thấy chưa được an ổn trọn vẹn".

Ðức Phật nói:"Hay thay! Hay thay! Thưa Bệ-hạ, trị nước an dân nên bằng vào sự công bằngđạo đức mà phê xử. Ấy là con đường thánh thiện trị quốc của bậc minh quân.Như-Lai tin Bệ-hạ thấm nhuần giáo pháp từ bi hỷ xả trí tuệ của Như-Lai, chắcthiên hạ đều được an cư lạc nghiệp".

Ðức Phật lại tiếp:"Có những nhà vua thời xưa không gặp được Phật chỉ nghiên đọc sách vở củacác bậc hiền triết mà khéo tu tâm trị quốc, thế mà cũng đã tránh được việc ác,hiện đời quốc gia được thanh bình thạnh trị, khi mạng chung, những nhà vua đóđược sanh về cõi trời hưởng phước báu đời đời".

Vua Câu-Tát-La nghePhật nói thế xong, liền thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Xin ngài thương xót kểcho con được biết một vài vị vua nào ở thời quá khứ, hành xử đạo đức chánhtrực, tiêu biểu để cho con học hỏi theo".

Ðức Phật nói:"Tốt lắm! Thưa Bệ-hạ! Thuở xưa có một vị vua, kinh đô ở thành Ba-La-Nại,sanh được một thái tử thông minh tuấn tú, tài đức song toàn, nên hoàng thânquốc thích, dân chúng lớn nhỏ đều quý mến. Thái tử tuổi vừa mười sáu, thì vuacha băng hà, và được triều thần suy tôn lên ngôi kế vị, lấy vương hiệu làPhạm-Ða-Ta. Vua Phạm-Ða-Ta đạo đức công bình, tánh tình thuần hậu trung trựchơn cả vua cha. Nhờ vậy mà tiếng thơm đồn xa, thiên hạ trong nước không cótiếng kêu ca ai oán, khắp nơi dân chúng an cư lạc nghiệp. Những vụ kiện tụngtrong nhân gian gần như không còn. Vua Phạm-Ða-Ta thấy dân chúng sống thanhbình, đất nước thạnh trị, nên lại càng tự xét mình về đường tu tâm dưỡng tánh,hành xử chánh pháp. Nhà vua ấy tự nghĩ rằng, chắc ta không thể nào thấy hết lỗilầm của ta. Vậy ta nên nhờ mọi người khác soi sáng nhắc chỉ dùm ta, như thế,họa hoằn mới có thể thấy được lỗi lầm của mình, và như thế ta mới thật sự tiếnbộ trên bước đường thánh thiện an dân trị quốc.

Nghĩ vậy rồi, nhà vualiền cho truyền rao khắp từ trong thành thị cho đến ngoài thôn quê: "Aibiết được lỗi lầm của đức vua nêu ra, thì sẽ được trọng thưởng. Ai có những oanức nên trình bày ra, thì sẽ được bảo đảm công minh xét xử".

Trải suốt hơn một nămtrời, lời truyền rao ấy lan khắp mọi nơi trong dân gian. Nhưng nhà vua chỉ tiếpnhận được những lời khen ngợi, mà không có một lời chê trách nào. Nhà vua tựnghĩ rằng, có lẽ vì ta ở ngôi vị đế vương đầy quyền uy tuyệt đỉnh thiên hạ, nênchẳng ai dám mở miệng ra phê phán lỗi lầm của ta chăng? Nghĩ vậy rồi, nhà vualiền bí mật gọi quan tể tướng đầu triều thay thế nhà vua xử lý việc triềuchính. Nhà vua lại bảo quan hầu cận đổi y phục thường dân cũng như ngài. Rồingài cùng với quan cận thần lặng lẽ lên ngựa ra khỏi hoàng thành. Suốt támtháng trời, nhà vua giả dạng thường dân đi khắp miền quê đô thị hỏi về đời sốngcủa dân chúng, hỏi về cung cách của nhà vua trị nước. Ðến đâu ai nấy cũng đềuhết lời khen ngợi vua của họ là bậc minh quân hiền đức.

Lúc bấy giờ có vị vuanước láng giềng tên là Ma-Ly-Ca được dân chúng từ trên đến dưới đều kính mếntài đức. Vua Ma-Ly-Ca cũng biết tu tâm dưỡng tánh, thi hành chánh sự công minhcũng đã từng giả dạng thường dân đi khắp trong nước để hỏi thăm về đời sống dântình, dò xem dân chúng đối với mình như thế nào.

Vào một dịp đi dự hộiquốc vương ở nước lân bang, giữa đường, xe vua Ma-Ly-Ca gặp xe vua Phạm-Ða-Ta.Quan đánh xe của vua Ma-Ly-Ca bảo vị quan đánh xe của vua Phạm-Ða-Ta rằng:

- "Anh tránh xera một bên, để cho xe đức vua Ma-Ly-Ca của ta đi trước".

Vị quan đánh xe chovua Phạm-Ða-Ta cũng nói: "Anh nên tránh xe anh ra, để cho xe đức vuaPhạm-Ða-Ta của ta đi trước mới phải".

- "Nhà ngươi nênbiết đây là xe của đức vua Ma-Ly-Ca, ngài là bậc vua hiền đức được toàn dân cảnước Kosala ca tụng".

Người đánh xe của vuaPhạm-Ða-Ta nghĩ bụng rằng: "Bên kia xe cũng đường đường là một nhà vua,thì biết phải làm sao để họ nhường cho xe của vua ta đi trước bây giờ?"

Ðang lúc suy tư tự tìmlời thuyết phục đối phương, thì như nghĩ ra một điều gì kỳ diệu, ông tự nói:"ờ! Ta có cách!"

Rồi xoay hỏi ngườiđánh xe hầu vua Ma-Ly-Ca kia: Vậy tuổi tác đức vua của nhà ngươi là baonhiêu?"

- Ðáp rằng: "VuaMa-Ly-Ca của ta bằng tuổi vua Phạm-Ða-ta của ngươi".

Khi hỏi đến diện tíchđất nước, dân số, quân lính, hoàng thân quốc thích, quần thần thì được quan hầukia cho biết thế lực của quốc vương Ma-Ly-Ca không kém gì thế lực của vuaPhạm-Ða-Ta. Người đánh xe của vua Phạm-Ða-Ta. Người đánh xe của vua Phạm-Ða-Talại nghĩ rằng, thế lực hai nước đã bằng nhau, bây giờ chỉ còn có cách sánh vềđạo đức thử xem ai hơn ai, nên liền hỏi: "Vua của nhà ngươi đức hạnh nhưthế nào? Lấy gì làm vinh quanh?"

Ðể trả lời, người đánhxe của vua Ma-Ly-Ca ngâm lớn rằng:

Với người thế lực hùngcường,
Vua tôi quyết thắngchẳng nhường cho ai,

Gặp người thanh nhãvăn tài,

Vua tôi khuyến lệnhững bài ái êm,

Với người đôn hậuthanh liêm,

Vua tôi quý mến lòngthêm kính nhường

Gặp kẻ hung ác đứngđường,

Ngài quyết trừng trịkhông đường thoát thân.

Ðọc xong bài thơ,người đánh xe cho vua Ma-Ly-Ca hỏi: "Vậy đức tánh của vua nhà ngươi nhưthế nào, sao không nói ra, để chúng ta cùng quyết định ai nên tránh đườngnhường xe cho đức vua của ai đánh được đi trước. Còn đức tánh của vua Ma-Ly-Cata thì đã rõ ràng như thế rồi đó".

Vị quan đánh xe chovua Phạm-Ða-Ta ôn tồn đáp:

Vua tôi hiền đức ônhòa,
Anh minh từ thiện nhànhà an vui,

Kẻ hung, người ác, hậnđời,

Vua tôi độ lượng dùnglời nhủ khuyên,

Khắp trong thiên hạlành hiền,

Bỏ lòng bỏn xẻn, tinhchuyên tu hành,

Vua tôi dân chúng tínthành,

Nói lời chân thật, giữmình tu tâm,

Việc lành nào chẳngkhông làm,

Việc ác nào chẳng lưutâm tránh chừa,

Ðức vua tâm hạnh đạithừa,

Nhân dân trên dướihưởng mưa phước lành.

Ngồi trong xe, nghe rõlời đối đáp, thấy rõ cung cách của vua tôi Phạm-Ða-Ta đã hơn hẳn mình, nên vuaMa-Ly-Ca liền bước xuống xe ra lệnh cho quan hầu kéo xe mình qua một bên đểnhường lối cho vua Phạm-Ða-Ta đi trước. Nhân đây vua Phạm-Ða-Ta dùng đạo lýkhuyến hóa vua Ma-Ly-Ca.

Những lời khuyến hóađầy đạo lý của vua Phạm-Ða-Ta như những giọt nước mát chảy sâu vào tim phổi vuaMa-Ly-Ca. Thế rồi, cả hai nhà vua sau khi chia tay từ biệt ai về nước nấy, mỗingười đều lấy đạo đức trị dân, còn chính bản thân mình thì ngày đêm ngoài việcquốc sự ra cũng hết sức chuyên cần tinh tấn tu tâm dưỡng tánh hành thiện bố thíkhông một chút giải đãi. Cả hai nhà vua ấy khi mạng chung đều sanh lên cõi trờihưởng phước báu và tiếp tục tu hành không đời kiếp nào gián đoạn.

Nói xong, đức Phậtkhai thị cho vua nước Câu-Tát-La biết rằng: Người đánh xe cho vua Ma-Ly-Catrong kiếp quá khứ đó, chính là tiền thân của Mục-Kiền-Liên ngày nay. Còn vuaMa-Ly-Ca của kiếp quá khứ xa xưa kia, chính là A-Nan. Người đánh xe cho vuaPhạm-Ða-Ta thuở xưa, chính là tiền thân của Xá-Lợi-Phất. Còn vua Phạm-Ða-Tatrong quá khứ đó, chính là tiền thân của Như-Lai ta đây vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2010(Xem: 5021)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
08/10/2010(Xem: 6740)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật. Vài nhà truyền giáo nào đó tiếp cận các Phật tử và nói rằng Phật không phải là một vị thần mà chỉ là một con người. Ngài đã chết và không còn nữa. Vậy thì làm sao người ta có thể tôn sùng một người cũng đã chết? Những chúng ta phải hiểu rằng, Đức Phật được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, vị thầy của chư thiên và loài người. Bất cứ khi nào chư thiên có gặp khó khăn, họ đều gặp ngài để xin lời khuyên. Thế rồi họ nói rằng vị chúa tể của họ vẫn hằng sống, và đó là lý do tại sao người người cầu nguyện với Ngài.
06/10/2010(Xem: 2686)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
03/10/2010(Xem: 2377)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
30/09/2010(Xem: 2959)
Tiếng Phạn Sarìra, PàliSarìra có nghĩa làtử thi, di cốt:dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân.Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốthay Phật xá lợi.Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại. Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi làTháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi làHội xá lợi.
29/09/2010(Xem: 5777)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
25/09/2010(Xem: 10145)
Theo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A Di Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó làPhật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh. Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi LạcBang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻchúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
22/09/2010(Xem: 12591)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
17/09/2010(Xem: 5093)
Trung đạo (madhyamŒ-pratipad) là con đường tránh xa hai cực đoan: hưởng thọ dục vọng và tu tập khổ hạnh, nó là kinh nghiệm rút ra từ bản thân của Ngài, sau khi sống hưởng thụ trong hoàng cung, và trải qua 6 năm tu khổ hạnh, nhờ con đường này mà Ngài thành đạt giác ngộ và giải thoát dưới cội cây Bồ đề.
17/09/2010(Xem: 2388)
Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời.Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”... Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]