Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Thái Tử Nhẫn Nhục Khải

29/08/201105:03(Xem: 4810)
01. Thái Tử Nhẫn Nhục Khải

LƯỢC TRUYỆNTIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
Hòathượng Thích Ðức Niệm
PhậtHọc Viện Quốc Tế, California, 1998

Thái Tử Nhẫn Nhục Khải

Trong kinh Thiền BíYếu Pháp, A-Nan thuật lại rằng: Một thuở nọ, đức Phật cùng với chúng đệ tửtỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người đang ở nước Xá-Vệ trong vườnCấp-Cô-Ðộc, rừng cây thái tử Kỳ-Ðà, thì tôn giả Ma-Ha Ca-Diếp dẫn người đệ tửcủa mình tên là A-Kỳ Ðạt-Ða đến ra mắt đảnh lễ đức Phật, rồi thưa: "Bạchđức Thế-Tôn! A-Kỳ Ðạt-Ða theo con tu học trọn hạnh đầu đà, ngày đêm tinh tấntrải đã 5 năm, tâm an trụ thâm sâu thiền định, đạt được đạo quả A-na-hàm. Ôngtiếp tục cố gắng hết sức để đạt đạo quả A-la-hán mà không thể đạt tới được. Ôngkhẩn cầu tha thiết xin phương pháp tu để đạt được quả Thanh-văn tối hậu. Connhập định quán sát thì thấy ông còn vướng mắc nghiệp chướng khó mà đạt đến đạoquả A-la-hán như ông mong muốn. Nhưng A-Kỳ Ðạt-Ða nhất quyết phải đạt cho kỳđược quả vị cùng tột Thanh-văn, dù phải bỏ thân mạng, chứ nhất định không camchịu lưu trệ ở quả A-na-hàm. Con thấy đạo lực của con không thể giúp ông đạtthành tâm nguyện, nên con dẫn ông ấy đến đây cầu xin Thế-Tôn từ bi gia hộ khaithị cho ông tỏ ngộ, để ông đạt thành sở nguyện".

Tôn giả Ma-Ha Ca-Diếpvừa dứt lời thì A-Kỳ Ðạt-Ða liền đảnh lễ quỳ gối chấp tay khẩn thiết bạch Phật:"Kính lạy đức thiên nhân Ðạo-Sư, mong Ngài từ bi thương xót khai đạo chocon. Không biết bởi nghiệp chướng gì ngăn ngại con phải bị ngưng trệ nơi quảA-na-hàm mà không tiến lên được đạo quả A-la-hán, dù con hết tâm lực tuhành!"

Ðức Phật từ hòa bảoA-Kỳ Ðạt-Ða rằng: "Lành thay A-Kỳ Ðạt-Ða! Ông hỏi việc ấy! Vậy ông hãylắng nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì ông mà giải nói: Thuở đời quá khứ vô lượngkiếp về trước, lúc đó có đức Phật Ðại-Quang-Minh ra đời thuyết pháp độ vô sốchúng sanh. Thời bấy giờ có Quốc-vương nước Ba-La-Nại tên là Phạm-Ma-Da, tháitử của quốc vương này là Nhẫn-Nhục-Khải. Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải tin sâu PhậtPháp, không sát sanh, chuyên tâm tu Thập Thiện, thực hành sáu pháp Ba-la-mật,chí thành hành đạo, không thiết ngôi vua cao quý, chỉ một lòng nguyện đạt đạoquả Vô-thượng Bồ-đề.

Trong nước có ôngtrưởng giả tên là Nhật-Nguyệt-Âm giàu sang phú quý, tôi tớ có đến hàng trăm,nhưng ông chỉ có người con trai độc nhất bỗng nhiên phát bệnh đại nhiệt phongnhập tâm, lòng sân hận bộc phát cuồng loạn mất trí, cầm dao chạy vào xóm làngtìm người chém giết. Ông trưởng giả thấy con điên loạn như thế rất đỗi buồn lo.Vì quá thương con, nên ông bưng lư trầm khói hương nghi ngút đi khắp bốn cửathành rải hoa phát nguyện: "Nếu thế gian này có vị thần tiên lương y,thánh nhân nào cứu được con tôi lành bệnh, thì tôi nguyện đem hết tất cả củacải sở hữu dâng hiến không một chút luyện tiếc".

Ðang lúc đó, thái tửNhẫn-Nhục-Khải ra thành dạo chơi, thấy đại trưởng giả vì quá thương con, màphát nguyện xả bỏ hết tài sản không chút tiếc nuối, thái tử thấy vậy động lòngtừ tâm về mối tình thâm phụ tử, nên chấp tay ngước mặt lên trời thầm nguyệnrằng: "Hỡi những đấng thần linh tiên nhân lương y thần dược, nên vì tìnhphụ tử của trưởng giả kia mà ra tay đến cứu hộ công tử".

Thái tử Nhẫn-Nhục-Khảithành tâm khấn vái vừa dứt lời, Ðại tiên nhân Nhựt-Quang đang tu trên núi tuyếtcảm đức thái tử, liền rời chỗ mình bay đến nói với trưởng giả: "Bịnh củacông tử do đại nhiệt phong khởi đã nhập tâm, nên phát cuồng. Theo kinh tiên dạythì phải lấy huyết của người hiền đức tu hạnh nhẫn nhục thoa vào mình công tửvà lấy tủy của người thiện tâm độ lượng cho công tử uống thì mới lành bệnhđược".

Vừa nghe Ðại tiên nhânnói xong, trưởng giả lo buồn suy nghĩ. Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải thấy dáng điệu lorầu đau khổ của trưởng giả, nên cảm thông liền hỏi: "Trưởng giả có việcchi nan giải mà ưu tư lắm vậy?"

Trưởng giả đáp:"Thưa thái tử! Ðại tiên nhân Nhựt-Quang sau khi xem bệnh con tôi rồi bảocho tôi biết rằng, muốn hết bệnh thì phải lấy huyết người tu nhẫn nhục thoa vàothân nó, và lấy tủy người nhân từ tán nhỏ cho nó uống thì bệnh mới khỏi".Tôi đang nghĩ cách nào để lấy tủy huyết của chính tôi để cho con tôi mau lànhbệnh thì tối mới an lòng.

Thái tử Nhẫn-Nhục-Khảian ủi trưởng giả: "Tôi nghe kinh Phật dạy rằng, chúng sanh nào làm khổ chamẹ thì sẽ bị đọa vào ác đạo". Nay trưởng giả vì thương con mà cắt thịt lấyhuyết chẻ xương lấy tủy, hủy hoại thân thể như vậy, công tử sẽ phải bị đọatrong ba đường khổ biết bao giờ mới ra khỏi. Thôi, tôi xin làm việc đó thay chotrưởng giả để cho công tử sớm được lành bệnh. Nói xong, thái tử tay cầm daonhọn đâm vào mình lấy huyết và tủy cho con ông trưởng giả. Ðược huyết tủy củathái tử Nhẫn-Nhục-Khải thì công tử liền hết bệnh.

Riêng về thái tử, saukhi tự tay cắt mình lấy huyết, chẻ xương lấy tủy cứu bệnh, thì trời đất rungđộng sáu lần, vua trời Ðế-thích, Phạm-Thiên và vô số Thiên-tử kéo nhau đến chỗthái tử đồng thanh ca ngợi tinh thần đại-hùng-lực đại-từ-bi của thái tử, và hỏithái tử rằng: "Vì lòng từ bi cứu người mà hy sinh không tiếc thân mạng,hay vì muốn cầu được làm Phạm-Vương, Chuyển-Luân Thánh-Vương, cầu sanh về cõiTrời hưởng phước lạc?"

Thái tử nói với trờèế Thích: "Tôi chỉ nhứt tâm cầu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề. Nếu nguyện tôithành thì xin cho thân thể tôi được hoàn nguyên như cũ". Thái tử vừa dứtlời, thân thể hoàn nguyên như trước, lại còn có phần khỏe đẹp hơn xưa. Liền đóthái tử nói kệ:

Nguyện khi tôi thành Phật
Phổ độ khắp trời người

Thân tâm không quảnngại

Lòng thương giúp tấtcả

Ðều được trụ Niết-bàn

Ðược an lành vĩnhviễn.

Thái tử nói kệ xong,chư Thiên mưa hoa cúng dường, lại đem nhiều châu báu đến hiến cúng thái tử.

Ông trưởng giả thấycon mình lành bệnh, liền cho người chở hết vàng bạc châu báu đến dâng tặng chothái tử để tỏ lòng đền ơn. Thái tử đem hết của báu đó bố thí khắp tất cả mọingười.

Ðức Phật nói đến đây,xoay về tôn giả Ma-Ha Ca-Diếp mà bảo rằng: "Nầy Ca-Diếp! Vua nướcBa-La-Nại khi xưa đó không ai khác, chính là tiền thân của Phụ-vương ta ngàynay. Còn trưởng giả Nguyệt-Âm xưa kia chính là tiền thân Ma-Ha Ca-Diếp ông ngàynay đó. Người con ông trưởng giả thời đó chính là tỳ-kheo A-Kỳ Ðạt-Ða đây. Vuatrời Ðế-Thích chính là ông Xá-Lợi-Phất ngày nay. Còn thái tử Nhẫn-Nhục-Khảichính là Thích-Ca ta đây vậy".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2010(Xem: 5080)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
08/10/2010(Xem: 6817)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật. Vài nhà truyền giáo nào đó tiếp cận các Phật tử và nói rằng Phật không phải là một vị thần mà chỉ là một con người. Ngài đã chết và không còn nữa. Vậy thì làm sao người ta có thể tôn sùng một người cũng đã chết? Những chúng ta phải hiểu rằng, Đức Phật được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, vị thầy của chư thiên và loài người. Bất cứ khi nào chư thiên có gặp khó khăn, họ đều gặp ngài để xin lời khuyên. Thế rồi họ nói rằng vị chúa tể của họ vẫn hằng sống, và đó là lý do tại sao người người cầu nguyện với Ngài.
06/10/2010(Xem: 2727)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
03/10/2010(Xem: 2429)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
30/09/2010(Xem: 2982)
Tiếng Phạn Sarìra, PàliSarìra có nghĩa làtử thi, di cốt:dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân.Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốthay Phật xá lợi.Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại. Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi làTháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi làHội xá lợi.
29/09/2010(Xem: 5845)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
25/09/2010(Xem: 10197)
Theo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A Di Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó làPhật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh. Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi LạcBang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻchúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
22/09/2010(Xem: 13027)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
17/09/2010(Xem: 5152)
Trung đạo (madhyamŒ-pratipad) là con đường tránh xa hai cực đoan: hưởng thọ dục vọng và tu tập khổ hạnh, nó là kinh nghiệm rút ra từ bản thân của Ngài, sau khi sống hưởng thụ trong hoàng cung, và trải qua 6 năm tu khổ hạnh, nhờ con đường này mà Ngài thành đạt giác ngộ và giải thoát dưới cội cây Bồ đề.
17/09/2010(Xem: 2413)
Sau khi Thái tử Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có trên đời.Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”... Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]