Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khi Thái tử đản sanh

15/03/201216:41(Xem: 5121)
Khi Thái tử đản sanh
KHI THÁI TỬ ĐẢN SANH
Tỳ kheo Thích Nguyên Các

happy-vesak-contentÐây là giáo lý mà chúng ta có thể tin theo. Không nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng ta có thể tìm một vị giáo chủ chói sáng như thế! Trong hàng loạt các vì sao, Ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất… Là cách nhận định về đức Thích Ca cũng như phật pháp của một văn hào ở Châu Âu, và một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố về Ngài "Con Người Vĩ Ðại Nhất Chưa Từng Có".

Ngài hiện thân một con Người. Con Người ấy thật phi thường, vĩ đại; thể hiện từ việc Người nhập thai, đản sanh, đến trong cuộc sống…

1. Hiện Tượng Kỳ Diệu Khi Thái Tử Đản Sanh

Theo tục lệ xứ Ấn Độ thời bấy giờ, đến kỳ khai hoa nở nhụy, hoàng hậu Maya (Māyā) trở về quê cha, Thiên Tý thành (Devadaha, hay thường gọi nước Câu Ly) để an dưỡng, chờ ngày lâm bồn. Trên đường đi, ngang vườn Lâm tỳ ni (Lumbinī), Hoàng hậu dừng chân nghỉ ngơi, thưởng ngoạn giữa ngàn hoa đua nở. Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi với hương ngào ngạt, giếng mương sông ngòi trong đầy, tiếng nước chảy như những bản nhạc giao hưởng bất tận; chim chóc reo vang tựa dàn đồng ca, bầu trời có hào quang tỏa khắp. Cùng bao điều kỳ diệu như:

Phật Thuyết Thập Nhị Du kinh《佛說十二遊經》quyển một viết rằng: Vào lúc Thái tử sắp hạ sanh, chư Thiên hội ý với nhau: nay Bồ tát (Thái tử) hạ sanh, tặng Ngài gì đây, có vị hiến kế nói, cõi trời Tịnh Minh có 440 loại châu báu, điêu khắc tinh sảo, đủ các kiểu, cũng như đồ trang sức quý, lấy các thứ đó là xe (từ dùng là xe, nhưng nghĩa là Tượng, tức Voi), tặng Ngài. (諸天皆言:“今菩薩下生,當何以贈送?”各設方計言:“唯淨明天上,四百四寶,奇鏤別異,各有名類,同有寶華,以為車乘”)[1]. Đoạn kinh sau tả rõ, Bồ tát (hay Thái tử), dùng voi, được làm từ các thứ châu báu, cùng tám vạn bốn ngàn vị Thiên tử giáng trần.

Theo lẽ thường, khi sanh nở mẹ thời đau đớn, máu huyết tổn hao, thế nhưng Phật Bản Hạnh Tập kinh《佛本行集經》quyển bảy[2] ghi rằng: Lúc sanh Thái tử, Hoàng hậu rất an lạc, thân thể không hề khó chịu. Thái tử cũng thế, không khóc, thân không dính máu huyết, có Tứ đại thiên vương hộ trì, chư thiên hộ vệ.

Lại, trong Phật Bản Hạnh Kinh《 佛本行經》quyển một, phẩm Như Lai Sanh thuật rằng: khi Thái tử xuất thai…

- Trên không trung, Thiên nữ cùng quyến thuộc đều đến, cử nhạc trời, ca tụng công đức tu hành của Thái tử trong nhiều đời.( 天女空中, 眷屬俱來, 鼓天伎樂, 歌歎功勳, 往古修行.)[3]

- Ngoài ra còn có, Tự Tại thiên vương cùng thiên chúng cũng vân tập đến, dùng tràng phan che, cung kính đảnh lễ Thái tử - bậc Bồ Tát hạ sanh. (來護菩薩, 又有天王, 名尊自在, 與無央數, 巨億諸天, 執持幢旛, 而來雲集, 以恭肅敬, 禮菩薩足.)[4]

Khi đó, từ không trung hai dòng nước thanh khiết, một ấm một mát, như mưa mùa xuân, làm toàn thân sảng khoái. (trích từ Phật Sở Hành Tán: “應時虛空中, 淨水雙流下, 一溫一清涼, 灌頂令身樂”[5]).

Liền ấy, Thái tử bước bảy bước, tay chỉ trời tay chỉ đất nói: “天上天下, 唯我為尊, 三界皆苦, 吾當安之” [6]. Nghĩa là, cõi trời cõi người, duy chỉ có ta là bậc tôn trưởng, ba giới đều khổ, ta sẽ làm cho được an lạc. Câu nói này, mỗi bộ kinh ghi chép, lời văn có phần khác nhau, xong nghĩa thì không. Như, Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi kinh quyển một là: “天上天下, 尊無過我者”[7] (trên trời dưới nhân gian, bậc tôn trưởng không ngoài Ta). Hay trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinh quyển một lại chép: “我於一切天人之中最尊最勝, 無量生死, 於今盡矣”[8] (trong tất cả trời người, ta là tối thắng, sanh tử bao đời, kiếp này sẽ chấm dứt.)

Nội dung cũng nói về cuộc đời đức Thích Ca, nhưng trong Phật Bản Hạnh Tập kinh, Phật Bản Hạnh kinh, kinh văn không có phần Thái tử bước bảy bước và nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Hoặc như hiện tượng, khi Thái tử đản sanh, thiên địa chấn động, ba ngàn đại thiên thế giới đều sáng rực. (應時天地大動,三千大千剎土莫不大明)[9]. Chỉ thấy trong Tu Hành Bản Khởi kinh quyển một, phẩm Bồ Tát Giáng Thân mà thôi. Điều này cho thấy, trong quá trình kinh văn từ truyền miệng, đến thành văn bản chữ viết, quá trình đó kinh điển đã có sự thêm bớt nhất định. Cũng vậy, những hiện tượng khác thường của đất trời vạn vật, sảy ra lúc Thái tử hạ sanh, trong kinh điển không phải đều như nhau.

2. Diệu Tướng Nơi Thân Thái Tử

Sau khi hoàng hậu Maya hạ sanh Thái tử, phái đoàn trở lại thành Ca tỳ la (Kapilavatthu). Thái tử được đặt tên là Tất Đạt Đa(梵 Siddhārtha,巴 Siddhattha)với nghĩa là, mọi sự đều thành tựu. Cái tên cũng đã thể hiện ý vi diệu, của đấng siêu phàm. Về hình tướng, Thái tử hội đủ hảo tướng của bậc Chuyển luân vương, hay đấng Như lai, đó là Ba mươi hai tướng tốt (Dvātrimsánmahā-purusa-laksanāni). Theo Phật Bản Hạnh Tập kinh, Trung A Hàm Tam Thập Nhị Tướng kinh, kinh Ðại Bát Nhã, cũng như y cứ vào Phật Quang Ðại Từ Ðiển quyển một bản chữ Hán, thì các diệu tướng đó là:

1. Lòng bàn chân bằng phẳng (足下安立, 皆悉平滿), 2. Bàn chân có xoáy tròn như bánh xe có ngàn nan hoa (雙足下有千輻輪相, 端正處中, 可喜清淨), 3. Ngón tay thon dài (手指纖長);

TatDatTa002-contentTatDatTa003-content

Tướng hảo 2. Tướng hảo thứ 3.

4. Gót chân bằng và rộng (足跟圓好), 5. Ngón tay chân (tròn búp) thon đầy (手足指間具足羅網), 6. Tay chân mềm mại (手足柔軟), 7. Mu bàn chân nổi cao đầy đặn (足趺高隆), 8. Đứng thế vững trãi (踹如鹿王), 9. Tay dài quá gối (曲二手過膝), 10. Nam căn ẩn kín (陰馬藏相), 11. Mỗi chân lông chỉ sanh một sợi lông, hình xoáy (皮膚一孔一毛旋生), 12. Các lông nơi thân đều, mịn (身毛上靡), 13. Da mịn màng (皮膚細軟), 14. Thân sáng chói như ánh kim (身毛金色), 15. Thân thể trong sạch, thanh tịnh (身體淳淨), 16. Miệng hàm tiếu (口中深好可喜方正), 17. Hàm như hàm sư tử vương (頰車方正如師子王), 18. Hai vai đầy đặn (兩肩平滿), 19. Thân tướng trang nghiêm (身體上下縱橫正等), 20. Bảy chỗ đều đầy đặn (七處滿好), 21. Đủ bốn mươi răng (具四十齒), 22. Răng khít (諸齒齊密), 23. Răng đều đặn (齒不疎缺不齹不齵), 24. Răng trắng đẹp (牙白淨), 25. Thân thanh tịnh (身體清淨), 26. Giọng nói như Phạn vương âm (聲如梵王), 27. Lưỡi rộng dài, mềm mại, màu hồng nhạt (舌廣長大柔軟紅薄), 28. Ăn gì cũng là mỹ vị (所食之物皆為上味), 29. Mắt xanh trong (眼目紺青), 30. Lông trắng xoáy giữa hai chân mày (bạch hào), (眉間白毫右旋宛轉具足柔軟清淨光鮮), 31. Lông mi dài cong, mắt sáng (眉眼睫如牛王), 32. Đầu có nhục kế (頂上肉髻高廣平好).

Ba mươi hai tướng tốt nêu trên, trong kinh luận có đôi chỗ khác nhau. Vì Ðại Bồ Tát cũng có đủ 32 tướng, như Chuyển Luân Vương, nhưng trong đó lại còn có 7 tướng thù thắng hơn Chuyển Luân Vương.

3. Lời Kết

Các hiện tượng kỳ diệu nêu trên, nếu đứng ở góc độ khoa học mà nhìn, thì có đôi chỗ khó mà chấp nhận được. Thế nhưng, điều đó không quan trọng, vì đến nay, có rất nhiều hiện tượng, sự việc khoa học vẫn chưa chứng minh được. Hơn nữa, tất cả chỉ để khẳng định, một vĩ nhân, bậc giác ngộ - phật Thích Ca đản sanh chắc chắn có những điều kỳ diệu phi thường. Hay, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp là những gì đi nữa, cũng chỉ để nói, vẻ đẹp hoàn hảo của đức Thế tôn.

Vĩnh Nghiêm, ngày trăng tròn tháng 2

ĐT: Đại Chánh Tân Tu Tạng Kinh, Cty TNHH Xuất bản Tân Văn Phong, Đài Loan xb, 1983



[1] ĐT, q4, no. 195, p. 146, b27-29.

[2] ĐT, q3, no. 190, p. 686.

[3] ĐT, q4, no. 193, p. 59.

[4] nt.

[5] ĐT, q4, no. 192, p. 1, b15-16.

[6] Tu Hành Bản Khởi kinh. ĐT, q3, no. 184, p. 463, c13-16.

[7] ĐT, q3, no. 188, p. 618, a19.

[8] ĐT, q3, no. 189, p. 625, a27-28.

[9] ĐT, q3, no. 184, p. 463, c13-16.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 6820)
Đây là bài thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức, tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy... Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
16/10/2010(Xem: 6249)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
12/10/2010(Xem: 4638)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
08/10/2010(Xem: 5829)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh. Bởi vì người đời thường nghĩ về cuộc sống theo cách của thế gian. Họ khó có thể hiểu được khái niệm một vị Phật. Vài nhà truyền giáo nào đó tiếp cận các Phật tử và nói rằng Phật không phải là một vị thần mà chỉ là một con người. Ngài đã chết và không còn nữa. Vậy thì làm sao người ta có thể tôn sùng một người cũng đã chết? Những chúng ta phải hiểu rằng, Đức Phật được tôn xưng là Thiên Nhân Sư, vị thầy của chư thiên và loài người. Bất cứ khi nào chư thiên có gặp khó khăn, họ đều gặp ngài để xin lời khuyên. Thế rồi họ nói rằng vị chúa tể của họ vẫn hằng sống, và đó là lý do tại sao người người cầu nguyện với Ngài.
06/10/2010(Xem: 2383)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
03/10/2010(Xem: 1997)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
30/09/2010(Xem: 2667)
Tiếng Phạn Sarìra, PàliSarìra có nghĩa làtử thi, di cốt:dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân.Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốthay Phật xá lợi.Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại. Hơn nữa, bảo tháp dùng để tôn trí xá lợi của Phật gọi làTháp xá lợi; nơi an tri bình xá lợi của Phật gọi là Bình xá lợi; Pháp hội cúng dường xá lợi Phật gọi làHội xá lợi.
29/09/2010(Xem: 5319)
Ngoài việc nói pháp đúng đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến cho tác dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả.
25/09/2010(Xem: 9629)
Theo lời đức Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật chỉ dạy trong kinh A Di Đà, cách thế giới Ta-Bà của chúng ta 10 muôn ức cõi Phật về hướng Tây rất xa, có một thế giới tên là Cực Lạc, Đức Phật giáo chủ cõi đó làPhật A-Di-Đà hiện đang thuyết pháp độ sanh. Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi LạcBang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻchúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
22/09/2010(Xem: 9762)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567