Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo

09/01/201213:27(Xem: 9923)
Hạnh Phúc Theo Quan Điểm Của Phật Giáo
lotus_53
HẠNH PHÚC
THEO QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO

Thích Trí Giải

Con người và loài thú đều giống nhau: đói thì kiếm ăn,khát thì kiếm nước uống, cũng đều duy trì bản năng sinh tồn như nhau. Loài thúcũng biết tổ chức theo từng đàn để bảo vệ cho nhau.

Chúng cũng có cảm xúc âu yếm, đùa giỡn bên nhau, đó làsự biểu lộ hạnh phúc của chúng. Nhưng chúng không biết tư duy, vì vậy chúng vẫnlà loài thú.

Con người biết tư duy, có tổ chức thành gia đình, làngxóm, và hình thành cộng đồng xã hội. Con người hành nhiều nghề khác nhau để duytrì cuộc sống.

Ngoài vấn đề ăn mặc, con người sản sinh ra nhiều nétvăn hóa như nghệ thuật, thẩm mỹ, thơ ca, khoa học…Mục đích của con người nhằmmưu cầu, tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mỗi người. Ở đây người viết xin trình bàythế nào là chân hạnh phúc con người cần nên tìm

I. Nhómhạnh phúc thứ nhất là con người biết an phận:

Quan niệm của họ là xây dựng một mái ấm gia đình nhonhỏ, vợ chồng con cái sống an vui, hòa thuận, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Họkhông ước vọng cao sang tiện nghi vật chất; cơm đủ ăn, áo mặc đủ ấm là hạnhphúc, phần đông họ sống ở nông thôn, làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi vàcác nghề thủ công, có một số ở thành phố là những giáo viên, công chức. Hạnhphúc của họ quả thật đơn sơ nhưng không kém phần nên thơ lý tưởng:

“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng hòa, vợ thuận, gật đầu khen ngon”
(Ca dao Việt Nam)

II. Nhómhạnh phúc thứ hai ước vọng cao hơn, phù hợp với xã hội phát triển ngày nay:

Phần lớn họ sống ở thành thị, có chung ước vọng họchành, có bằng cấp, có địa vị, danh vọng, tiền của, nhà cửa cao sang, huy hoàngvà lộng lẫy, vợ đẹp con xinh, đầy đủ tiện nghi, theo cách nghĩ của họ sống màthiếu tiện nghi là không có hạnh phúc. Bởi vì họ là người tạo ra của cải vậtchất nên họ có quyền thụ hưởng, cho rằng đó là hạnh phúc cuộc đời.

III. Nhómhạnh phúc thứ ba thanh cao hơn, đó là những vị ẩn sĩ sống nơi non cao, núi thẳm.

Họ muốn ra khỏi chốn hồng trần đầy đau khổ này. Hay lànhững người Phật tử hiểu được chân lý của cuộc đời, sống cuộc sống thiểu dụctri túc, vui với đạo, vui với nội tâm, không màng đến danh lợi, họ tìm cuộcsống hạnh phúc thanh cao hơn, tao nhã hơn. Hằng ngày làm bạn với cỏ cây, sôngnúi, vui bên chén trà, nghe tiếng chim hót, hay là tụng Kinh, ngồi thiền… cóphải hạnh phúc của họ được mong cầu lên cảnh giới chư thiên hưởng thú vui dụclạc trên ấy hay không?

“Cuộc thế công danh mơ tưởng hão
Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng”
( Lê Thánh Tông)

Trên đây chỉ phân tích theo từng nhóm. Người viết muốnnêu lên hạnh phúc cụ thể hơn, tùy theo độ tuổi, tùy theo hoàn cảnh sống, tùytheo địa vị xã hội. Hạnh phúc của em bé là được vuốt ve, âu yếm của người mẹ,được bú mớm, được cưng chiều, hạnh phúc của nó là ở gần bên cha me, gần bênngười thân yêu.

Có người cho rằng hạnh phúc là những điều mình mongmuốn, có người thấy thân mình đẹp, đoan trang là hạnh phúc, có người cho rằngmạnh khỏe không bệnh tật là hạnh phúc…những điều hạnh phúc nêu trên thật sựkhông bền chắc.

Nếu đem trí tuệ của đạo Phật mà quán chiếu thì thấynhững hạnh phúc ấy mong manh, dễ tan vỡ như giọt sương lúc ánh nắng ban mai, vìbản chất cuộc đời là vô thường, duyên sinh vô ngã,

“Hãy nhìn như bọt nước
Hãy nhìn như cảnh huyễn
Quán nhìn đời như vậy
Thần chết không bắt gặp
( Pháp cú 170 )

Ngài Vạn Hạnh thiền sư đã “Thị Đệ Tử ”bằng bài kệ

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn vật xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

Những hạnh phúc này theo lăng kính của Đạo Phật thìchúng chính là mầm mống của sự khổ đau vì chất chứa nhiều sự lo âu, phiền não,sầu khổ. Ví dụ: Có người nói rằng, gần người mình yêu là hạnh phúc. Bạn có chắcchắn rằng người yêu ấy có chung thủy với bạn suốt đời không? Người yêu ấy khôngcó bị sanh, lão, bịnh, tử không?

Nếu như tất cả đều theo ý muốn của bạn thì quan niệmhạnh phúc của bạn là đúng. Nhưng có bao giờ được như vậy không? Có những đôitình nhân nghĩ rằng được sống gần bên nhau là hạnh phúc. Nhưng cuộc sống baogiờ cũng có hợp ắt phải có chia lìa, yêu nhau xa nhau sinh ra sầu khổ (ái biệtly khổ). Trong cái hợp đã có mầm móng của sự chia lìa.

Điều họ nghĩ: “đaukhổ vì nhau, buồn nhớ vì nhau là hạnh phúc”hạnh phúc của họ là thứ hạnh phúc chờđợi héo mòn, và hạnh phúc của sự âu lo. Thật sự, hạnh phúc của ái tình rất mongmanh, chóng tàn, là thứ tạm bợ, giả tạm mà có trong chốc lát, chứ không phảihạnh phúc miên viễn.

Vì sao nói hạnh phúc của thế gian luôn luôn có sự ưunão, buồn khổ? Bởi vì, hạnh phúc ấy xuất phát từ lòng tham ái, chấp thủ. Ở đâucó mặt của tham ái, ở nơi đó có mặt của đau thương và thù hận.

Nhất là trong vấn đề tình yêu đôi lứa thường hay thờthốt với nhau, tiếng nói ấy cũng chính từ cái tâm chấp ngã mà có đôi khi đểđánh lừa đối tượng, không phải thứ tình yêu chân thật.

Một người có tình yêu chân thật thì luôn có sự hy sinhvà trao tặng cho người mình yêu thương, không mong cầu đón nhận. Tình yêu còncó bản ngã, còn có chấp thủ thì sao có sự hạnh phúc chân thật và bền vững được.Nên chúng ta hãy xem quan niệm hạnh phúc trong phật giáo như thế nào?

IV. Hạnhphúc theo quan điểm của Phật giáo

Hạnh phúc trong Đạo Phật luôn luôn đòi hỏi sự hành trìthâm hậu ở mỗi con người. Con người luôn ý thức và làm chủ ngũ dục (tài, sắc,danh, thực, thùy) và những vật chất hữu vi chỉ là phương tiện sống. Mục đíchchính là con người phải biết quay về đời sống tinh thần tu tập diệt trừ mọiphiền não để tâm hồn thanh tịnh, an lạc ngay trong kiếp sống hiện tại.

Đạo Phật không quan niệm vàng bạc, ngọc ngà châu báulà hạnh phúc, Hạnh phúc càng không phải đặt chân vào lâu đài tình ái. Hạnh phúckhông phải hình thành từ chất liệu ngũ dục thế gian…không phải chạy theo tiếnggọi của mỹ nhân để được nghe lời hay ngọt ngào, âu yếm cho là hạnh phúc, nhữngthứ này chỉ làm cho tâm con người quay cuồng trong vòng xoay sinh tử, khôngbiết bao giờ ngưng nghỉ, và tạo thêm khổ đau.

Hạnh phúc là những ai biết quay về với đời sống tâmlinh cao cả, đó là phần tinh ba cao quý nhất của con người, sống quay về vớichính mình và giây phút hiện tại. Nếu chúng ta rời khỏi mình mà chạy tìm cầu ởngoài thì làm mất đi cái gì quý giá nhất, lạc vào tà kiến, ấy chính là quên đicái sáng suốt vốn có của mình (Phật Tính). Từ trong bóng đêm vô minh mù mịttrải qua hàng vạn kiếp, tâm hồn ta trôi giạt trong biển đời mênh mông, như contàu lênh đênh bị sóng gió dập dồi ở ngoài biển khơi không bến bờ nương tựa. Đóchính là biển ái dục và bão tố vô minh, vùi dập chúng ta quay vòng trong sinhtử vô tận.

Chúng ta học Phật Pháp một cách sâu xa và chắc chắntrong tay có được một ngọn đuốc sáng trên con đường đi tìm chân hạnh phúc. Giátrị nhiệm màu của đạo Phật là “tri”“hành”chứ không phải dùng để nói suông, càngthực hành sâu chừng nào mới thấy giá trị Phật pháp cao siêu chừng đó.

Đức phật tuyên bố: “Giảithoát an lạc, giác ngộ và tịnh độ đều ở ngay trong tâm của chúng ta” hay là “Ta đến đây không phải cứu độ cácngươi, Ta đến đây cốt là để chỉ đường đi sáng suốt cho các ngươi. Các ngươi hãynoi theo đó mà tiến hóa giác ngộ để tự độ lấy mình.”“Ngươi là ngọn đuốc và là nơi nươngnáu cho chính ngươi. Ngươi đừng tự phó thác vào chốn dung thân nào khác”

Hạnh phúc mà Đức Phật muốn dạy chúng ta đạt đến làcảnh giới Niết bàn tại tâm. Niết Bàn là Bản Thể chân thực của ta, củaquần sinh và vũ trụ.

Niết Bàn là hạnh phúc.

Niết Bàn ở sẵn trong tâm khảm con người.

Niết bàn là Chân Thường, Hằng Cửu.

Niết Bàn là một trạng thái tĩnh lặng, bất biến.

Niết bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này.

Như vậy Niết Bàn là trạng thái mà ta có thể tự tạo chota, ban bố cho ta, chứ không do một vị Thần Phật ngoại tại nào. Tại sao vậy?Thưa chính là vì ta đã nhập thể với Bản Thể vũ trụ, nguồn sinh xuất ra vũ trụ,và chư Phật, chư Hiền Thánh Tăng.

Đến đây tôi sực nhớ lời Phật dạy trong Kinh Pháp Cú: “Các ngươi hãynỗ lực lên. Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ, chứ không giác ngộ thế choai được. Sự trói buộc củama vương sẽ tùy sức thiền định của ngươi mà được cởi mở.” (Kinh Pháp Cú276)

Mới hay công trình tu trì, giải thoát của con ngườicũng đã chịu một định luật thiên nhiên chi phối. Đó là: “Linh tại Ngã, bấtlinh tại Ngã” (Hay tại ta, dở cũng tại ta).

Nếu Niết Bàn là hạnh phúc, là bất biến, là trạng tháicó thể thực hiện ngay ở đời này, thì dĩ nhiên là nếu có được hạnh phúc bây giờ,thì hạnh phúc ấy cũng không thua kém hạnh phúc hưởng được sau khi nhắm mắt tắthơi.

Nhận định này hết sức quan trọng. Bởi vì ngay từ trongcuộc sống hiện tiền của chúng ta có thể đạt được một trạng thái cao siêu nhấtmà trời đất có thể dành để cho chúng ta. Nếu cuộc sống hiện tại chúng ta chưađạt được an lạc nội tâm thì đừng có mơ tưởng viễn vong đến thế giới cao xa

Vì vậy con đường giải thoát là tìm Chân Tâm tự nơimình:

“Hướng ngoại mà tìm cầu,
Tất cả đều ngu si.
Hướng nội mà tùy xứ tiện nghi,
Tất cả đều là chân thật.” [1]

Lục Tổ Huệ Năng nói: trong Pháp Bảo Đàn Kinh: “Tựmình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấymình mới được” [2]

Như vậy châm ngôn để đi tìm chân lý sẽ là:

Con đường hướng nội tiến cho sâu,
Càng sâu, càng thấy lắm nhiệm mầu.
Tâm khảm bao la không bờ bến,
Vũ trụ mênh mông đã thấm đâu.

Vậy muốn tìm Chân Tâm, muốn tìm Phật Tính, phải tìmngay trong người mình, trong lòng mình.

Phật bảo A Nan: ChânTính đã ở nơi ngươi mà ngươi chẳng tin, lại theo nơi miệng ta mà tìm Chân Tính,vậy ngươi đã lầm chưa? [3]

Hạnh phúc theo Đạo Phật rất đơn giản, bất cứ người nàocũng đạt được hạnh phúc đó, miễn sao đi đúng con đường đức Thế Tôn đã vạch ra.Trong kinh Đức Thế Tôn dạy về sự chấm dứt khổ đau như sau: “Này các Tỳ kheo, trong tất cảpháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải thoát ly tham (viràga,) là cao cảnhất. Ấy nghĩa là giải thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham, nhổ tận gốc sự chấpthủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái, giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn.[4]

Nếu ta theo con đường Đức Phật đã dạy thực hành mộtcách kiên tâm trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu tađạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể thực chứngNiết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì những danh từ lớn lối bíhiểm. Cho nên hạnh phúc trong Phật giáo cũng vậy, người nào thật sự tu tập đoạntrừ tham ái, chấp thủ chính người ấy mới cảm nhận được hạnh phúc.

Hạnh phúc trong Phật giáo là sự từ bỏ“tham ái, chấptrước”có nghĩa là khôngvướng bận bất kỳ mọi hoàn cảnh nào, ở trong khổ đau vẫn thấy an vui, hạnh phúc,ở trong đời ngũ trược đầy dẫy sự đau khổ và bất công, chúng ta cũng có thể tựtại, an vui, cho dù chung quanh của ta toàn là ngũ dục, lạc thú. Chúng ta vẫnkhông vướng mắc đến nó cho nên thật là chí lý khi nói:

“Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau
Giải thoát là ung dung trong ràng buộc”

Chân lý hạnh phúc không chờ đợi ở kiếp sau, và cũngkhông cần tìm kiếm một nơi nào khác, chân lý có thể hiện hữu ngay bây giờ và ởđây. Trong tất cả mỗi người ai cũng có một nguồn hạnh phúc chân thật, nhưng conngười không biết nhìn nhận hạnh phúc này, mà đi tìm cầu cái hạnh phúc giả tạmkia.

Chuông lòng thánh thoát từ tâm
Pháp âm thơm ngát, khói trầm quyện bay
Lòng an, tâm tịnh mỗi ngày
Dứt phiền não đoạn, tỏ bày tánh chơn ... (Hoa Mai)

Thích Trí Giải

Chú thích:

[1] Lâmtế lục thị chúng, ĐĐ ThiênÂn, Triết học Zen, tr.103

[2] PhápBảo Đàn Kinh(Đoàn trung Còndịch), Sám Hối Phẩm, tr. 61

[3] 云 何 自 疑 汝 之 真 性, 性 汝 不 真, 取 我 求 實. Vân hà tự nghi nhữ chi Chân Tính, Tính nhữ bất chân,thủ Ngã cầu thực. – Thủ LăngNghiêm kinh(V.N. P.T. hội xuất bản), q. II, tr. 16-17.- ThủLăng Nghiêm, -Linh Sơn, Phật Học, tr. 113-114

[4] Aṅguttara-Nikāya, II.p.34

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/04/2014(Xem: 5187)
Nhà nghiên cứu Elizabeth Dunn nhận thấy rằng, người nào chi tiền cho người khác, người đó cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều so với những người chi tiền cho bản thân.
07/04/2014(Xem: 5188)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chất và tâm thần, nên rất cần biết cách “xả” stress trong cuộc sống đầy căng thẳng, âu lo hiện nay.
06/04/2014(Xem: 16705)
Người đứng đầu Truyền thừa Phật giáo Kim cương thừa Drukpa luôn quan niệm đưa triết lý Phật giáo vào hành động, tìm con đường giải thoát cho những vấn đề mà con người gặp phải ngày nay.
05/04/2014(Xem: 12226)
Khi biên soạn tập tài liệu nhỏ nầy, mục đích chính của chúng tôi là nhằm giúp thêm tài liệu cho quý tăng ni học chúng tại Tổ Đình Phước Huệ. Từ trước tới nay trong mỗi mùa an cư tại Tổ Đình, quý tăng ni học chúng đều có học qua các môn: Kinh, Luật và Luận. Ngoài ra, họ còn phải học thêm các bộ môn khác như: lịch sử, nghi lễ, hành chánh v.v... đặc biệt nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Riêng trong mùa an cư của năm 2007, Hòa thượng Tông Trưởng có sai bảo chúng tôi, nên biên soạn tài liệu để hướng dẫn giúp cho học chúng về vấn đề nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng thường nói với chúng tôi, người xuất gia muốn làm giảng sư, không phải chỉ có kiến thức Phật pháp không thôi là đủ, mà nó còn đòi hỏi phải có nhiều khía cạnh khác, nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng cũng thường khuyến khích khuyên bảo học chúng: “sống trong thời đại mới nầy, các vị nên cố gắng trau giồi thêm về những kiến thức ngoại điển để có thể thích nghi với trào lưu tư tưởng của nhơn loại trong việc hoằng
02/04/2014(Xem: 10633)
Nhân công trong những quốc gia bị trị của nhiều thế kỷ trước, phần lớn đều bị bóc lột, thậm chí còn bị đánh đập nếu làm sai hoặc không đủ số lượng mà chủ ấn định. Ngày nay, xã hội tiến bộ, số phận của người làm công được cải tiến. Nhưng nhiều hảng xưởng vẫn chưa thu hoạch được lợi nhuận như đã dự trù, vì nhiều yếu tố nội tại của công nhân và cách hành xử mà người chủ cần có.
02/04/2014(Xem: 13747)
Kim Dung đã tìm đến Kinh Phật để mong lý giải nguyên nhân cậu con trai Tra Truyền Hiệp tự tìm đến cái chết khi chưa tròn 20 tuổi. Kim Dung, tên thật Tra Lương Dung, là nhà văn đương đại nổi tiếng Trung Quốc. Ông được đông đảo độc giả hâm mộ bởi hàng loạt tiểu thuyết võ hiệp đặc sắc như Thiên long bát bộ, Anh hùng xạ điêu, Thần điêu hiệp lữ, Lộc Đỉnh ký, Tiếu ngạo giang hồ… Kim Dung được mệnh danh là “Thái Sơn, Bắc Đẩu” trong giới tác giả viết tiểu thuyết võ hiệp.
28/03/2014(Xem: 8873)
anger-face Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận. Có cơn giận sôi sục, có cơn giận lành giá, có cơn giận làm bạn run lẩy bẩy, có cơn giận bùng lên như lửa cháy. Và có cơn giận chính mình – chúng ta gọi là tự căm ghét mình.
23/03/2014(Xem: 15603)
Bài giảng cuối cùng là câu chuyện đẹp về người thầy, một người bạn, một người chồng và người cha, về giá trị nhân văn cao cả của cuộc sống. Bài giảng của người thầy đã cận kề với cái chết không nói gì về sự ra đi, mà lại là những câu chuyện hài hước, dí dỏm để đúc kết những chân lý sống “nếu bạn dám ước mơ điều gì, bạn sẽ có thể thực hiện được điều đó". Đó là người thầy của Trường Đại học Carnegie Mellon (Mỹ) - Randy Pausch, người đã mang đến một bài giảng có sức sống vượt ra khỏi khuôn khổ nhà trường để đến với công chúng toàn thế giới. Bài giảng cuối cùng thật xúc động, chân tình và đầy ý nghĩa đã được kết tinh lại thành những trang sách có sức lan tỏa đến hàng triệu trái tim người đọc trước khi ông qua đời ở tuổi 47 vào giữa năm 2008 vì bệnh ung thư. Sách đã được dịch ra 35 thứ tiếng.
21/03/2014(Xem: 22614)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
18/03/2014(Xem: 7749)
hật ái ngại khi với tư cách một tác giả lại viết giới thiệu về một tác phẫm do chính mình chuyễn thể. Nhưng trước tấm lòng và sự tận lực cống hiến của êkíp thực hiện nhằm kịp thời dâng lên đức Từ Phụ nhân ngày Đại Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc 2558 (2014), nên sau thời gian đắn đo khá lâu đã thôi thúc, đi đến quyết định phải có đôi dòng giới thiệu đến chư tăng ni và Phật tử khắp nơi vở cải lương đặc biệt này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567