Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại Bi Là Vô Ngã, Vô Ngã Là Niết Bàn

19/06/202408:02(Xem: 1356)
Đại Bi Là Vô Ngã, Vô Ngã Là Niết Bàn


quan am-qd-2
Đại Bi Là Vô Ngã, Vô Ngã Là Niết Bàn


            Đọc tụng Chú Đại Bi chẳng phải để cầu phước mà nương theo oai lực của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để tạo an vui lợi lạc cho đời. Do đó, theo học hỏi riêng tư:

-Khi đến chùa, với tâm Đại Bi bạn sẽ không thấy ai là Phật tử thông minh, ai là Phật tử ngu độn. Bạn sẽ không thấy ai là Phật tử giàu sang, ai là Phật tử nghèo hèn. Bạn sẽ không thấy ai đẹp mà cũng chẳng thấy ai xấu. Bạn nhớ lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác, “Không kính người trì giới, không ghét người phá giới, không trọng người học lâu, không khinh người mới học. Vì sao vậy? Tất cả là tính giác. Ví như con mắt sáng, thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không có yêu, không có ghét.”

-Gặp đông đảo Phật tử đi lễ chùa, bạn nói đi chùa rất tốt nhưng quý vị phải Phước-Huệ song tu. Bố thí, cúng dường là tu phước. Bỏ bớt Tham-Sân-Si là tu huệ.

-Khi bạn đi trên đường, thường nghĩ đến chuyện nhường đường cho người khác.

-Khi ngồi trên xe đò, bạn sẵn sàng nhường ghế cho phụ nữ, người khuyết tật và già yếu.

-Khi có chiếc ghế tốt và chiếc ghế xấu, bạn ngồi ghế xấu và nhường ghế tốt cho người khác. Khi có ghế hàng đầu và ghế sau, bạn nhường ghế hàng đầu cho người khác.

-Khi có chỗ mát và chỗ nắng mặt trời, bạn nhường chỗ mát cho người khác.

-Khi chia phần với bạn bè, bạn nhận phần ít hơn cũng chẳng sao.

-Khi chia gia tài của bố mẹ, bạn không tranh giành với anh chị em, có sao cũng được.

-Khi thấy người té ngã, bạn sẵn sàng nâng họ dậy.

-Khi ăn chung, món nào ngon bạn nhường cho bạn bè, con cái và cả người vợ hay người chồng của bạn.

-Khi có tâm Đại Bi, gặp người vô gia cư rách rưới hôi hám, bạn vẫn nở nụ cười và giơ tay chào họ.

-Khi nói chuyện bạn cố giữ im lặng và không công kích, chê bai, bình luận về những gì người đối diện nói. Tất cả những gì vừa nói ra nó đã thành quá khứ. Mà quá khứ thì không thể níu kéo được.

-Trước lỗi lầm của người, bạn thông cảm vì “Vua chúa còn có khi lầm”.

-Với người nổi tiếng, bạn không ghen tỵ. Ai có phận của người đó.

-Trong một đám đông ồn ào, bạn niệm Phật hay giữ gìn Chánh Niệm.

-Bạn không thắc mắc về của cải, giàu sang của ai. Một cung điện nguy nga xây ngay bên cạnh căn nhà tầm thường của bạn, bạn vẫn không khởi niệm thèm muốn hay ghen ghét.

-Bạn không thèm khát các tiện nghi của thời đại. Có hay không cũng thế.

-Thấy người đeo nữ trang, vàng bạc, kim cương đầy mình bạn nói rằng đạo đức là trang sức đẹp nhất của con người. Một đóa hoa toàn vẹn là hoa có đủ hương lẫn sắc. Sắc là vẻ đẹp, hương là đức hạnh.Tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát là cô gái dòng Bà-la-môn cực kỳ hiếu thảo và đức hạnh.

-Tất cả những gì dư thừa bạn nên cho người thiếu thốn.  Khi thiểu dục bạn sẽ thấy mình dư thừa. Khi thèm và muốn bạn sẽ thấy lúc nào mình cũng thiếu thốn.

-Trước những biến động ồn ào của truyền thông, bạn quán chiếu Luật Vô Thường, vạn pháp hoại diệt trong từng sát-na và hư không vốn thanh tịnh cho nên tâm bạn lắng yên, không nhảy vào cuộc bênh-chống, thương-ghét của thế gian. Bản thể của thế gian này vốn thanh tịnh nhưng vì cái tâm vọng động cho nên nó trở thành nhiễu loạn, ồn ào.

-Gặp người ham mê cờ bạc, bạn nói rằng trí tuệ là tài sản vô giá mà không mất tiền mua.

-Gặp người nghiện ngập ma túy, bạn nói rằng tại sao hủy hoại cuộc đời bằng những cảm giác đê mê giả tạo.

-Gặp người hung ác, bản chẳng khởi tâm thù ghét mà nói về Nhân-Quả.

-Gặp kẻ bị mọi người khinh ghét bạn chớ hắt hủi mà an ủi họ. Qua việc Phật độ ông Angulimala đã giết 99 người để có phép mầu cho thấy kẻ bị người đời hắt hủi nhất là trẻ em không tình thương sống ở chốn chợ đời sẽ hận đời và trở nên vô cùng nguy hiểm khi lớn lên.

-Vào nhà tù, bạn khuyên phạm nhân nên tụng Kinh Địa Tạng cho tâm hồn an tĩnh, tránh khủng hoảng và may đâu sẽ được ân xá để trở về với cha mẹ, vợ/chồng con cái.

-Gặp người nuôi chim nuôi cá bạn nói rằng không ai thích ngồi tù. Ngày sung sướng nhất của phạm nhân là ngày được phóng thích.

-Gặp người trộm cắp bạn nói rằng của cải do mình làm ra mới bền vững

-Gặp trâu, bò đang cầy ruộng, kéo xe, bạn xin chủ nhân hãy đối xử với các chú trâu bò này như những  công nhân trung thành đang làm việc giúp bạn. Khi trâu bò già yếu, xin chớ ăn thịt chúng nó.

-Gặp người mê đắm sắc dục, bạn nói rằng đời còn có nhiều hạnh phúc cao thượng khác.

-Gặp người đang buồn, bạn an ủi. Gặp người vui, bạn chúc mừng.

-Gặp cặp vợ chồng mắng chửi, đánh đập nhau như kẻ thù bạn nói rằng cây trái muốn tốt phải lo chăm bón. Vợ chồng muốn hạnh phúc phải cho nhau lời ngọt ngào, đừng cho nhau lời cay đắng. Đôi chim sống với nhau suốt đời không bao giờ mắng chửi, ly dị nhau. Loài chim không có tự ngã hay cái ngã rất nhỏ cho nên chúng sống rất yên bình.

-Gặp một người quá thông minh lanh lợi, bạn nói rằng thông minh quá nhiều khi cũng không tốt.

-Khi gặp người quyền thế, bạn giữ tâm không phân biệt. Bạn đối xử chừng mực như một người bình thường.

-Gặp người nghèo, bạn vẫn giữ tâm không phân biệt, giống như Đức Phật đối xử với người đàn ông thuộc giai cấp tiện dân gánh phân. Giàu nghèo cũng như giấc mộng.

-Gặp người than nghèo quá muốn chết đi cho rảnh nợ, bạn khuyên họ hãy dùng hết nghị lực và ý chí để thoát nghèo. Hãy nhiếp niệm Nam Mô Quản Thế Âm Bồ Tát may đâu sẽ gặp vận may, có tiền thì cho ít tiền hoặc kêu gọi mọi người cùng giúp.

-Gặp cô gái bị phụ tình, ôm con định nhảy xuống sông tự vẫn, bạn nói rằng nếu cô chết đi thì người đó có trở lại với cô không? Nếu không thì cuộc tự sát này hoàn toàn vô ích.Tại sao mình phải lệ thuộc vào một người? Có đầy đủ nghị lực và ý chí thì có thể xây dựng một cuộc đời khác tốt đẹp hơn. Thiếu gì người còn có thể thương cô mà.

-Gặp cô gái sống bằng nghề mại dâm, bạn không nói bất cứ câu gì khiến người ta phải đau khổ. Bạn nói rằng bằng nghị lực và ý chí thì nghiệp nào cũng có thể chuyển được và nhớ thường xuyên nhiếp niệm Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát để trợ lực cho mình.

            Thực hiện tâm Đại Bi như thế, bạn chẳng còn có Ngã, chẳng phải phàm mà cũng chẳng phải thánh. Người đời muốn gọi bạn là gì cũng được. Có thể có người khen và cũng có thể có người chê, nhưng không sao vì khen-chê cũng giống nhau. Bông hồng, dù khen nó vẫn thế, dù chê nó vẫn không xấu đi. Chỉ có lòng mình xấu-đẹp chứ vạn vật không có xấu-đep.

            Khi thực hiện tâm Đại Bi, theo Duy Thức Tông, năm thức của bạn bao gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân vẫn hoạt động bình thường nhưng thức thứ sáu Ý Thức không biện biệt, phân tích, phỏng đoán, tiên liệu…Nó giống như một tấm gương tịch mịch chiếu soi. Khi đó thức thứ bảy Mạt-na còn gọi là Ngã Thức không động, không chấp thủ cho nên bạn không có Ngã. Hoàn toàn không có cái Ngã phân biệt đúng-sai, yêu-ghét. Lúc đó bạn ở trạng thái Vô Ngã. Bạn đã vào bể tịch diệt của Như  Lai tức Niết Bàn lúc nào mà bạn không biết.

            Bàn về Vô Ngã Là Niết Bản, có bài viết của HT. Thích Thiện Siêu đăng trên Thư Viện Hoa Sen và Tu Viện Quảng Đức năm 2012:  “Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau”. (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)

            Rồi bài Vô Ngã và Niết Bàn của Thích Hiển Chánh đăng trên trang nhà Phật Giáo Việt Nam năm 2019, “Tại đây, đức Phật tuyên bố rằng sự thiền quán về bản chất của vô ngã hay tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng sẽ giúp ta nhổ lên được gốc rễ của bản ngã, và mặt khác, chứng đạt niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại này. Đoạn kinh đó như sau: "với quán tưởng thiền, không còn một thực thể hay ngã tính tồn tại. Vị ấy sẽ chứng đạt giải thoát các thái độ "tôi là" và đạt được niết-bàn trong hiện đời."

            Trong cuộc hội ở Núi Linh Sơn, Đức Thế Tôn giơ cành hoa ra hiệu cho đại chúng. Mọi người đều im lặng không hiểu ý gì, chỉ có một mình ông Ma Ha Ca Diếp rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn nói, “ Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực tướng Vô tướng, Vi diệu Pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trao phó cho Ma Ha Ca Diếp.”

            Còn trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, bản dịch của HT. Thích Trí Tịnh, Phật dạy rằng, “Lạc là thật nghĩa của Niết Bàn.”

            Như vậy Niết Bàn tại tâm chẳng phải là nơi chốn hay vùng đất hay cung trời nào. Do đó, dù ở tịnh xá, chùa hay tu viện, hay hang động, thậm chí tại gia cũng đạt tới Niết Bản mà chẳng cần phải tu khổ hạnh lang thang trên đường, ngủ ở gốc cây gò mả. Và cũng chẳng phải chết đi mới có. Khi tâm chẳng luyến vào cảnh thì hành giả đang ở và trạng thái Vô Ngã vì ngã do cảnh sinh. Mà vô ngã thì thanh tịnh, tịch mịch chiếu soi, không dung chứa bất cứ cái gì dù thiện hay ác đúng hay sai.

            Đại Bi Tâm là phương tiện sắc bén để đạt tới Niết Bản. Ý nghĩa tột cùng của Chú Đại Bi là đem tình thương, an vui và hạnh phúc tới cho mọi người mà chẳng vì mình. Khi vì mình thì xây đắp ngã tướng. Khi vì người thì chẳng còn Ngã Tướng. Theo Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, bài chú này được Bồ Tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc tập họp của các vị Phật, bồ tát, các vị thần và thiên vương. Mục đích của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát khi đọc chú này là muốn cho chúng sanh được an vui, trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. (Phật Giáo Việt Nam).

            Chú Đại Bi chẳng phải chỉ để đọc tụng. Xin quý bạn thử thực tập tâm Đại Bi trong cuộc sống xem có được an vui, không hề gặp chướng ngại trong đời?  Các vị thiền sư chứng đắc, quý ngài không nói mình chứng đắc Niết Bàn nhưng khiêm tốn nói “Ung dung, tự tại, không  vướng mắc, cột buộc bởi bất cứ cái gì.” Đó đích thị Niết Bàn (*) bởi vì Niết Bàn chỉ là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. (**)Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Đức Phật còn nói “Chân thật là Niết Bàn”. Còn trong Kinh Pháp Cú Tây Tạng (***) Phật dạy,” Người lái làm nhẹ thuyền (mới đi xa được), tát cạn tham và sân  ngươi sẽ tới Niết Bàn”.

            Như vậy tu theo Phật, chớ vội mong đắc quả A La Hán, Bồ Tát, Bích Chi Phật mà thực tiễn tận hưởng Niết Bàn ngay tại thế mà người tu hành có thể đạt được theo lời Phật dạy. Một trong những phương tiện oai lực để hướng tới Niết Bàn chính là tâm Đại Bi.

Thiện Quả Đào Văn Bình

(*) Niết Bàn này đối với chúng sinh là Hữu Dư Niết Bàn vì vẫn còn những phiền não rất vi tế. Còn khi Phật nhập Niết Bàn đó là Vô Dư  Niết Bàn tức từ bỏ xác thân giả tạm này và vĩnh viễn không còn bất cứ phiền não nào.

(**) Muốn hiểu thêm về Thường-Lạc-Ngã-Tịnh xin đọc bài viết của Ni Sư Thích Nữ Hằng Như đăng trên Thư Viện Hoa Sen https://thuvienhoasen.org/a39406/hoc-thuyet-thuong-lac-nga-tinh

(***) Bản dịch của Cư Sĩ Nguyên Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2013(Xem: 7246)
Hôm nay là ngày trăng tròn tháng giêng mà cũng có nghĩa là chúng ta đang bắt đầu bước vào thời gian cấm túc tu tập mùa đông. Có cả một đêm dài để thiền định thế này quả là một cơ hội tuyệt vời và càng may mắn hơn nữa là kể từ bây giờ chúng ta còn có đến hai tháng trời để sống hết mình theo Phật Pháp.
11/08/2013(Xem: 7828)
Theo sử sách, vừa mở mắt chào đời, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha) đã đứng dậy, ngoảnh mặt nhìn bốn hướng, rồi đi bảy bước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là chí tôn”. Xong Ngài nói tiếp: “Từ vô lượng kiếp đến nay, phen này là hết”. Hai lời tuyên bố đó có tính cách quyết định mục tiêu hành động của Ngài: đoạn trừ phiền não, quét sạch vô minh, giải thoát sanh tử, chứng đắc niết bàn, thanh tịnh an lạc.
10/08/2013(Xem: 9756)
Một thời đức Phật ngự trong vườn Cấp Cô độc, nước Xá Vê, bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ Kheo: - Ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy chúng sanh sinh ra chết đi, chết đi sanh ra, sắc đẹp sắc xấu, thiện hoặc ác, chỗ lành hoặc chỗ dữ tùy theo nghiệp mà chúng sinh đã tạo ra. Ta thấy những sự kiện ấy đúng như thật, không hư dối. Nếu có chúng sanh nào làm ác, nói ác, nghĩ ác, phỉ báng Thánh hiền, tà kiến, thì do nhân duyên ấy, khi chết chắc chắn đi vào chỗ dữ, sinh nơi địa ngục. Nếu chúng sinh nào làm lành từ thân miệng ý, ca ngợi bậc Thánh hiền, không có tà kiến, do nhân duyên này, khi chết người ấy sẽ đi vào chỗ tốt, sanh nơi cõi trời.
10/08/2013(Xem: 13691)
Những câu hỏi này được ghi lại vào ngày 7 tháng 4, 2013 tại buổi pháp thoại thứ ba của Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại khóa tu dành cho Các Nhà Giáo tại Thái Lan, vào tháng 4, 2013. Trong bài pháp thoại này, Thiền sư đã trả lời các câu hỏi không chỉ xuất phát từ những vấn đề cá nhân mà cả những vấn đề trong phạm vi giáo dục. Những đề tài trao đổi bao gồm cả việc thực tập chánh niệm đối với người trẻ.
31/07/2013(Xem: 7820)
Thiền không phải điều huyễn luận được sáng tạo từ ý thức, hoặc từ những quái thai biến chứng của tư tưởng bị dồn kín, đè nén trong những tra vấn cùng quẩn. Tất cả những vũ đoán về thiền là một cái gì đều hoàn toàn sai lầm lạc lối, nếu dùng trí thức hoặc ý niệm cố hữu để thẩm định, ắt hẳn lạc xa nghìn trùng. Thiền vốn khước từ tất cả, dù đó là hệ thống tư tưởng vĩ đại, được dàn dựng công phu hoặc dùng kiến thức đa năng soi chiếu vẫn là điều phủ quyết, chối bỏ mãnh liệt nơi thiền.
31/07/2013(Xem: 14493)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng: “Nay ta mới nối ngôi, ta nên cưới con gái dòng họ Thích, nếu được cho cưới, thật vừa lòng ta, nếu không bằng lòng, ta sẽ áp lực bức bách.”
27/07/2013(Xem: 9517)
Đi chùa lễ Phật, ở nhà ăn chay, tụng kinh niệm Phật, ra ngoài đời hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho xã hội là sinh hoạt nền tảng cần có của một Phật tử chân chính. Những hoạt động trên có tác dụng rất lớn khiến bản thân thanh tịnh, tâm hồn hướng thượng, gia đình hạnh phúc, vun trồng cội phúc cho mình và cho con cháu. Song đó chỉ là những điều kiện cần nhưng chưa đủ
25/07/2013(Xem: 5001)
Ngài Kyabje Ling Rinpoche (1903-1983) là một trong hai vị Thầy giáo thọ cao cấp nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma 14th. Mới vừa 10 tuổi Ngài đã vào trường Phật học, chưa đầy 20 tuổi đã hoàn tất xong học vị Tiến sĩ (Geshe). Đời Ngài là một bài học Phát Bồ Đề Tâm, chân tu thật học. Đến cuối cuộc đời Ngài vẫn còn ban những bài pháp cao quí cho gần 2000 thính giả tại Tu viện Sera vào đầu năm 1983. Ngài thị hiện tự tại nhập diệt vào tháng 12 năm đó với nhiều hiện tượng nhiệm mầu, thực chứng cả cuộc đời hành trì chánh pháp. Người dịch xin kính chuyển ngữ bài pháp Phát Bồ Đề tâm Ngài đã giảng tại Ấn Độ năm 1979. Mọi chỗ chưa sáng tỏ là do lỗi của người dịch, nếu có được công đức nào xin vì tất cả chúng sanh, nguyện hồi hướng cầu sinh Tây phương Tịnh Độ.
25/07/2013(Xem: 9186)
Năm nay là năm 2013, đây là năm kỷ niệm chu niên lần thứ 30 của Gia Đình Phật Tử Pháp Bảo tại thành phố Sydney, tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi. Những khuôn mặt của 30 năm về trước và những con người theo suốt chiều dài lịch sử vừa qua, đến nay chắc chắn đã theo luật Vô Thường biến đổi khá nhiều. Nếu làm con tính nhẩm, các em Oanh Vũ 6 tuổi của thời 1983, thì năm nay cũng đã thành một thanh niên, thanh nữ 36 tuổi
25/07/2013(Xem: 9528)
Vươn đến một đời sống thành công và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻ và hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]