Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại sao “Tánh biết và bản ngã” đang chơi Trò chơi “giác ngộ” kỳ diệu của Pháp?

15/06/202216:15(Xem: 3669)
Tại sao “Tánh biết và bản ngã” đang chơi Trò chơi “giác ngộ” kỳ diệu của Pháp?



Tại sao “Tánh biết và bản ngã”
đang chơi Trò chơi “giác ngộ” kỳ diệu của Pháp?

Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
Do có nhiều câu hỏi lại trùng hợp với sự thắc mắc của người viết và đã được HT ban cho lời dạy đã khiến người viết tâm đắc mà sưu tầm lại tất cả những đáp án và soạn lấy riêng cho mình một bài giáo lý sâu sắc hầu chia sẻ cùng các bạn. Và xin nhắc được lại lần nữa chữ ta trong bài viết chỉ là một danh tự theo chế định của tục đế để xưng hô mà thôi.
Các bạn có khi nào tự hỏi mình như người viết với câu hỏi sau đây?
“ Kính bạch Thầy, có những lúc con cũng cảm thấy mình được ngộ đạo, tâm con cũng có lòng từ bi, yêu quý nhân loại biết buông bỏ, biết sống là tạm. Nhưng tâm con lại có lúc cũng rất ham hố cũng muốn làm đẹp cho đời cũng muốn có sự cống hiến về vật chất cho đời cho đạo. Nên con cứ trôi lăn trong vòng lăn lộn về kinh doanh. Mà ít được hưởng cái tu tập trong tĩnh lặng. Có những lúc con muốn buông đi tất cả công việc để trở về với cái tĩnh lặng. Nhưng con lại nghĩ rằng nếu mình ko làm đẹp cho đời thì đạo đâu có nghĩa gì. Bạch thầy nếu thế con nên thế nào“
Các bạn ơi, mình đã khóc khi nghe lời đáp như sau …
“Cả hai đều là biểu hiện của bản ngã, vì đó chỉ là hai khuynh hướng đối nghịch của bản ngã lý trí mà thôi, không phải là ngộ đạo đâu. Lý trí phân vân nghi hoặc giữa tịnh và động, giữa tự lợi và lợi tha... khi nghiêng về bên nào thì lý trí tìm lý lẽ để bênh vực cho khuynh hướng đó, nhưng rồi một thời gian sau nó lại theo chiều hướng ngược lại. Cả hai khuynh hướng đó chưa phải là Phật Đạo. Phật Đạo thấy ra cả hai mặt động tịnh, tự tha v.v... mà không rơi vào quan niệm nhi nguyên nên mới có thể sống tuỳ duyên thuận pháp vô ngã vị tha một cách tự nhiên ngay trong đời sống này - không có gì mâu thuẫn cả.”
Thì ra là thế …..thôi thì cùng nhau chúng ta học lại từ đầu nhé !
"Cái Ta", "Bản ngã", "Tánh biết" đều chỉ là tên gọi. Có nhiều cái gọi là "ta" khác nhau lắm: ta ảo tưởng, ta giả định theo vị trí (cha, chồng, quản lý...), ta đại danh từ (tôi, anh, nó, chúng ta...) v.v... trong đó vô ngã là không còn cái ta ảo tưởng thôi, còn mấy "ta" kia cứ dùng trong tục đế tự nhiên miễn đúng tốt là được.
Ta là ảo tưởng về cái tôi đối với anh em, chồng vợ, cha ông v.v..., của Ta là ảo tưởng về những gì mình sở hữu như thân của ta, nhà của ta, xe của ta v.v..., tự ngã của ta là cho rằng ta có linh hồn, tự tánh, tánh biết, tánh giác, Phật tánh, Đại ngã v.v... trường tồn bất biến.
Vậy thì cốt lõi của bản ngã là cái "ta, tôi" ảo tưởng trong pháp chế định.
- Ta, tôi từ chế định đại từ để xung hô như ông, anh, nó v.v...
- Ta, tôi từ vị trí của mỗi người trong đời sống như cha, mẹ v.v...
- Ta, tôi từ địa vị trong xã hội như chủ tịch, giám đốc v.v...
- Ta, tôi từ nghề chuyên môn như bác sĩ, kỹ sư, giáo viên v.v...
- Ta, tôi từ hợp đồng như vợ, chồng, chủ, tớ v.v...
Như vậy, Chính mình là bản ngã, là vô ngã, là không gì cả... tuỳ vào thái độ nhận thức của mỗi người, nên không cần xác minh định nghĩa qua ngôn từ, chỉ sinh ra tranh cãi, mà nên thấy nó như nó là.
Ổi là ổi, xoài là xoài, xoài không cần thành ổi hay ngược lại đó là chính mình. Chính mình là vô ngã thì liền có sự tương giao tự nhiên.
Chính mình là bản ngã thì tạo mối quan hệ hữu ý.
Chủ yếu là thấy ra cái gọi là chính mình đó thực sự là gì.
Và như thế “Cái tôi” chỉ là một nội dung hiện hữu một dòng tâm thức đang vận hành liên tục. “Cái tôi” chỉ còn là ý niệm mà thôi. Trong Kinh Kim Cang Phật đã dạy:
“Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng, huyễn, bào, ảnh Như lộ diệc như điện Ưng tác như thị quán”
Các luận sư Phật học giảng giải bốn câu kinh như sau: Ở đây Phật muốn nói rằng những gì chúng ta thấy không phải là tự thân của sự vật, tưởng rằng mình đã nắm được thực tại, kỳ thực mình đang nắm những hình bóng huyễn mộng của nó. Phải quán chiếu sâu sắc như thế để thoát khỏi ảo giác về thực tại, Phật cũng là con người nhưng với tuệ giác siêu phàm đã thấy được các hiện hữu như mộng, huyễn, bào, ảnh. Đức Phật vẫn sống, vẫn ăn và uống nước như chúng ta, nhưng Phật sống với tinh thần vô chấp và vô tướng. Còn chúng ta thì không như thế. Vạn vật tồn tại không phải như ta tưởng, cũng không phải là không tồn tại, “cái tôi” cũng như tất cả các hiện tượng có vẻ như tồn tại nhưng thực ra chỉ là ảo ảnh. Thái độ bám chấp vào cái ngã (cái ta) là đi liền với khổ đau cho mình và cho cả người khác. Buông xả định kiến về hình ảnh riêng tư không cho “cái ta” là quan trọng sẽ giúp chúng ta tạo dựng một không gian nội tâm tự tại.
Và các bạn ơi xin thú thật tôi càng thấy mình cần phải nghe nhiều pháp thoại hơn nữa để hiểu được thế nào là Tánh biết và bản ngã đang chơi trò chơi "giác ngộ" kỳ diệu của Pháp.

 Vì cái "ta" vẫn luôn muốn khẳng định mình, nó muốn người khác phải hiểu nó, tôn trọng nó, nếu không được như ý nó cứ ấm ức mãi. Đó là lý do vì sao người ta cứ muốn giải toả được ấm ức trong lòng bằng cách tâm sự với bạn bè. Đo đó mọi người lúc nào cũng đang tham dự trò chơi này, cũng đừng xuất ly trò chơi sớm quá vì có lẽ ….Luật chơi là khi nào Tánh biết thấy hết mọi biến hoá của bản ngã thì bản ngã tự biến mất, đơn giản chỉ thế thôi.!
Và tôi cũng có đồng suy nghĩ với một bạn đạo khi nghe nhiều bài pháp thoại về Bản Ngã của HT Viên Minh như sau:
“Chúng ta không biết Bản Ngã hình thành từ khi nào, dường như là từ những trải nghiệm yêu ghét lấy bỏ trong quá khứ. Bản Ngã khi còn non yếu thường hay bị đè nén hoặc cấm cản, song điều này thường là phản tác dụng và chỉ khiến cho nó càng kiên cố hơn. Chỉ đến khi Bản Ngã phải nhận lãnh đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm đối với chính nó thì nó mới tiếp cận được với những giới hạn, bất toàn, và bất lực của mình trước các diễn biến của Nghiệp quả và tự nhiên của các quy luật vận hành thời gian và không gian, để rồi phải điều chỉnh cho phù hợp với các diễn biến đó thôi.
Và khi mê thì bị bản ngã sai khiến, khi tỉnh bản ngã chỉ giúp phát huy nhất thiết trí (trí liễu thông tất cả pháp) mà thôi. Giống như người chăn trâu mê ngủ thì trâu mới phá, người chăn trâu biết rõ trâu thì trâu trở thành thiện dụng
Lời kết:
Cái Ta thật ra là không có thật, không có thực chất, từ thân thể cho tới tinh thần, tình cảm, sự nghiệp, cho tới cả địa cầu, mặt trăng, mặt trời, vũ trụ, nói chung là vạn pháp, đều không có thực chất.

Cái ta ảo tưởng đồng nghĩa với bản ngã.

Bản ngã chỉ là cái "ta" ảo tưởng, trên thực tế chỉ có pháp đang vận hành mà thôi, không có cái bản ngã nào trong đó. 
Ngũ uẩn cũng không phải là bản ngã, nhưng bản ngã cho rằng ngũ uẩn là chính nó. Vì vậy ngũ uẩn làm giàu cho bản ngã và bản ngã tích luỹ ngũ uẩn.
Đó là lý do khi thành đạo, Đức Phật không nói ta đã tìm được căn nhà, mà nói đã tìm được "người thợ làm nhà", và đã phá bỏ toàn bộ căn nhà mà người thợ ấy đã xây trong bao kiếp luân hồi. Người thợ làm nhà đó là bản ngã, xây căn nhà ngũ uẩn.
Riêng Trung Quán luận lại tách ra hai cái ta:

– Cái ta bẩm sinh, bản năng (còn gọi là cái ta tương đối).
– Cái ta khái niệm huân tập theo thói quen và được con người gắn cho nhiều tính chất mà mỗi người tự cho đó là cốt lõi của mình, độc lập và trường tồn (gọi khác là cái ta tuyệt đối).

Cái ta bẩm sinh, bản năng, tương đối là một danh từ giả lập để chỉ cái thân năm uẩn; nó có tính quy ước trong việc xưng hô và chỉ định sự khác biệt giữa từng cá nhân trong xã hội. Chẳng hạn khi đi làm thì nói “Tôi đi làm” – cái tôi (ta) này thuộc loại giả lập vì thực tế có cái thân này đi chứ không phải cái thân người khác đi.

Cái ta khái niệm chỉ là một ảo tưởng, một lầm chấp, chúng sinh vô minh nên lầm tưởng là cái ta tuyệt đối, thật có. Từ khi chào đời cho đến lúc ra đi, thân thể của con người phải chịu đựng bao thay đổi liên tục và tâm thức là một sân khấu của vô số những trải nghiệm về nhận thức và về tình cảm. Đau xót hơn là con người vẫn lầm chấp gán cho cái ta đó những tính chất thường hằng, đặc thù và tự chủ , luôn bị cái ngã ảo tưởng tạo cho một ý nghĩ rằng chỉ có mình có thể “đội đá vá trời” hay “thế thiên hành đạo” nhưng thực ra ảo tưởng chỉ tạo ra cõi ảo mộng đầy huyễn hoá mà thôi, không ảnh hưởng gì đến sự vận hành của pháp tánh tự nhiên…..

Tuy nhiên, từ lời dạy của nhiều cao tăng, đôi lúc không cần phải truy cùng diệt tận bản ngã như thế.
Bản ngã có công dụng của nó. Nó là ảo tưởng, là giả định nhưng cũng như khoa học nhờ có những giả thuyết đưa ra dự đoán rồi mới thí nghiệm để khám phá sự thật. Cứ để bản ngã ma mãnh theo cách của nó thì con mới phát hiện ra nhiều sự thật thú vị. Đó chính là ý nghĩa câu "phiền não tức Bồ-đề". 
Hơn thế nữa chúng ta không cần diệt trừ bản ngã, vì nó chỉ là ảo tưởng - không có thật, cũng đừng cố truy tìm hay huỷ diệt bản ngã, chỉ cần quan sát tự nhiên để thấy hành tung bản ngã và ý muốn của nó là được. Vì muốn thoát khỏi bản ngã cũng là bản ngã, nhưng khi sáng suốt thấy rõ những biểu hiện của bản ngã đang diễn ra thì cái thấy đó vô ngã.

Chỉ cần soi sáng lại mọi sự mọi vật ngay nơi thân tâm và cuộc sống để thấy thực tánh của nó thì ảo tưởng bản ngã tự biến mất. ( Như khi tưởng sợi dây là con rắn thì đừng cố mà diệt con rắn, chỉ cần soi sáng sợi dây thì ảo tưởng con rắn liền tự biến mất,
Và cũng nên khắc ghi nhớ trong tâm rằng “Càng trốn tránh cuộc đời chỉ là trốn trong ảo tưởng của chính mình. Bản ngã là thứ chỉ bị bào mòn khi va chạm với 2 mặt của cuộc sống” .

Hãy tưởng tượng  “Nếu ta là ly nước đầy cặn bã mà chỉ thấy cặn bã không phải ta, của ta, tự ngã của ta thì con liền giác ngộ giải thoát.
Nếu ta là ly nước tinh khiết mà thấy đó là ta, của ta, tự ngã của ta... thì vẫn không thoát khỏi cái ta ảo tưởng.”
Và nếu lý luân rằng vô ngã là không làm gì được ở đời thì đức Phật và các bậc thánh sao lại có thể làm lợi lạc quần sinh vô ngã vị tha đến mấy ngàn năm vẫn còn như thế được? 

Sân vì không như ý 
Muốn như ý càng sân
Đó chính là đạo lý
Bản ngã chỉ phù vân!
 Viên Minh


Phần đông ai trong chúng ta đều nhầm khi tư duy và cố hiểu về bản ngã, tựu chung là 4 điều sau đây:
-Thứ nhất là ta cố sống tốt để thể hiện bản ngã, nên khi bị cho là xấu thì bản ngã thấy bế tắc muốn thoát ra, tức muốn công nhận là tốt.
Thứ hai: Thật ra đôi khi một điều đối với ta cho là tốt chưa chắc đã tốt đối với người khác. Vì Thiện và ác cũng xuất phát từ cái ta ảo tưởng nên vẫn còn trong thế gian (lokiya). Thoát khỏi thiện ác của bản ngã mới là cái thấy vô ngã (alokiya). Khi thấy tư tưởng chỉ là pháp sinh diệt như nó đến và đi giữa hư không thì cái thấy đó vô ngã, còn tư tưởng thiện ác vẫn hữu ngã, từ cái ta ảo tưởng

Thứ ba: Nếu thật sự ta đã sống tốt với mọi người thì dù khi không được công nhận ta  vẫn tiếp tục tốt với họ, thông thường ta chỉ muốn tốt với người công nhận mình tốt thôi... thì vẫn chưa tốt đâu.

Thứ tư: nhiều khi ta không thấy có sự đối nghịch của đối phương vì chính lúc đó có thể đang giúp ta xem lại chính mình thử đã "khi xúc chạm việc đời tâm không động không sầu" chưa. Nếu chưa đủ thì cần họ giúp tiếp nữa


Đừng nhầm lẫn giữa cái "ta ảo tưởng" với cái "cá thể duyên sinh" rồi! Vì
bản ngã của một tỷ phú và binh nhì ……trong ảo tưởng thì rất rất khác, nhưng trong bản chất thì hoàn toàn giống nhau.
Và người giác ngộ thật sự dù ở trong chân đế - vô ngã - nhưng cũng không xả tục đế vì ở đó cái "cá thể duyên sinh" hoạt động bình thường mà vẫn không có cái "ta ảo tưởng"

Thật ra bản ngã không tự nhiên vì nếu hiểu tự nhiên là cái gì sẵn có trong trời đất không do con người tạo tác mà thành, thì bản ngã không phải tự nhiên vì do tư tưởng con người tác thành qua tiến trình ngũ uẩn. Thí dụ: Nếu trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe, trong xúc chỉ xúc, trong biết chỉ biết thì không có tưởng, hành, thức hình thành bản ngã.

Trong cuộc sống, tại sao ta thường thấy khổ đau, những đấu tranh trong xã hội, hận thù, rồi chiến tranh tàn phá cuộc sống. Đấy là do con người ta còn tham đắm sắc tài danh lợi, ngũ dục lục trần. Vì còn chấp ngã, cái “ta” và cái “của ta” luôn luôn ngự trị trong cuộc đời vì thế họ chẳng bao giờ thỏa mãn với những gì mình có, hạnh phúc lại như cái bóng khi họ vừa chạm tay vào nó, nó liền tuột mất, nhường chổ cho khổ đau xâm chiếm. 
Vì vậy, nếu tâm không chấp ngã thì lòng tham không tồn tại, sẽ không có những thủ đoạn lọc lừa, những toan tính tàn ác ngự trị.
Phải chăng đến tuổi thu đông trải qua nhiều cay đắng của cuộc đời ta mới nhận ra rằng …Mỗi người khi sinh ra liền xuất hiện một bản ngã (mà ta hay gọi là cái ta ảo tưởng) giống như trung tâm ảo trong vùng không gian ý thức của người đó. Bản ngã này ngày càng dày lên thêm theo những kinh nghiệm mà người đó góp nhặt theo thời gian sống. Mặt khác bản ngã chỉ là những giả thiết lúc đầu được cho là đúng nhưng khi trải nghiệm thực tế mới thấy là sai. Buông hết sai này đến sai khác, cho đến khi không còn gì để giả thiết và cũng không còn gì để sai thì cũng không còn bản ngã nữa


Người giác ngộ là người nhận ra sự chi phối của cái bản ngã này tới nhận thức, hành động của họ và khi nhận ra rồi họ không còn bị bản ngã cuốn đi nữa. Tức là người giác ngộ vẫn có những điều mong muốn/không mong muốn của họ nhưng không bị bản ngã đẩy những muốn/không muốn đó thành nỗi khổ của người . Tất nhiên khi chưa giác ngộ giải thoát hoàn toàn thì cái ngã vẫn còn, nhưng nếu có rõ biết chính mình thì miễn sao bản ngã tốt là được. Nhiều người lầm lẫn "bản ngã" với "chính mình". Chính mình là hoạt động riêng biệt của mỗi cá thể, trong khi bản ngã chỉ là cái "ta" ảo tưởng.


Chân lý ở ngay nơi thực tại, nếu không học ngay đây và bây giờ để thấy Sự Thật thì muôn đời vẫn chạy theo bánh vẽ hay lập trình của bản ngã mà thôi.
Trộm nghĩ nằn mọi người trong chúng ta đều công nhận ý muốn luôn đi trước hành động, và nếu chưa hoàn toàn giác ngộ thì đàng sau ý muốn hầu như luôn có cái ta ảo tưởng. Tất cả mọi hoạt động của thân tâm đều theo quy trình vận hành của pháp. Lẽ ra chúng ta chỉ quan sát để sống thuận pháp thôi, thì chúng ta lại làm theo quan niệm của mình nên đi lệch hướng và chuốc lấy hậu quả khổ đau.  


Bạn hữu thân mến, hy vọng bài tổng hợp này đã tóm gọn tất cả lời dạy về bản ngã của HT Viên Minh.
Con kính tri ân Ngài đã ban cho chúng con những bài pháp thoại tuyệt vời và những lời giải đáp thật sâu sắc. Kính chúc Ngài pháp thể khinh an và kính nguyện sẽ suy nghiệm một cách cách nghiêm túc, tìm hiểu, đối chứng  thực tế, so sánh với khoa học, so sánh với lẽ thật thế gian (trạch pháp).


Trân trọng,


Nhiều năm trước, bạn đồng môn thường khuyên nhủ,
“Đừng biến tiểu ngã thành đại ngã” ….nhớ cho
Tin tưởng mình …sống theo lý trí …chẳng hề lo
Không đo lường, “Lương tri Tánh Biết”…vĩ đại!!!


Trong khi “Lương tri bản ngã” …có đi có lại
Chúng luôn ma mãnh đùa cợt trêu ta
Chỉ khi cẩn trọng, thấu hiểu thấy ra
Bình tĩnh sáng suốt luôn là thần hộ mạng !!!


Dù bước trải nghiệm trong cuộc sống …có giới hạn
Ý luôn đi trước hành động .. đúng quy trình
Quan sát, điều chỉnh… tam độc hiện thình lình
Đừng để chệch định hướng …rơi vào bẫy !!!


Đôi khi nghiệp duyên, nhân quả lại thúc đẩy
Có nhận thức rồi…nhưng pháp lại vận hành
Việc gì cũng có hai mặt phát sanh(1)
Học được gì từ sự lựa chọn ấy ???


Huệ Hương
————————————
(1) tích cực và tiêu cực
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 8961)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 7478)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
13/08/2018(Xem: 7316)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
23/05/2018(Xem: 4165)
Bài viết này để trả lời một vài câu hỏi nhận được gần đây. Nếu giúp được một số độc giả, xin hồi hướng công đức từ bài viết để Phật pháp trường tồn. Trường hợp các câu trả lời bất toàn hay sơ sót, người viết, với vốn học và vốn tu đều kém cỏi, xin lắng nghe quý tôn đức chỉ dạy thêm.
10/03/2018(Xem: 10139)
To give the briefest conclusion that I can think of to the question- 'Do you think that sectarian diversity affects the stability of Buddhism as a whole?', I would have to say, 'Yes' and 'No'. My intention here is not to give a definitive answer, but to give readers 'food for thought', to enable each of us to be responsible and maintain pure intentions, to think for ourselves and develop genuine wisdom and compassion. In the spirit of the Dharma, rather than dwelling on any possible problems, we should mainly focus on solutions to any such problems. With the hope of maintaining the integrity and purity of Buddhism in this world.
03/02/2018(Xem: 16612)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 15513)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
08/12/2017(Xem: 18666)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
19/11/2017(Xem: 8212)
Tình, Tưởng. Cả hai đều thuộc về phạm trù của Tâm con người, không có ở trong các loài súc sinh, mặc dù súc sinh có cái biết bằng Giác (giác hồn, sinh hồn) nhưng, không tinh khôn bằng loài người, do Phật tánh bị chìm sâu bởi thú tính cao vời. Chỉ có loài người, Phật tánh được hiện hữu ở ba cấp thượng, trung, hạ, cho nên loài người là linh vật, chúa tể của muôn loài có khả năng dời núi, lấp sông do bởi cái tâm có tánh giác tinh anh Phật, Bồ Tát, Thánh, Phàm. Nói khác hơn, con người chỉ có một tâm nhưng, nó tự chia ra hai phần : Chủ tể và phụ tể. Nói theo Duy Thức Học; là Tâm vương, Tâm sở. Vai trò của Tâm vương là chủ động tạo tác ra vô số lời nói, hành động thiện, ác. Vai trò Tâm sở là duy trì, bảo vệ những thành quả (sở hữu) mà cũng chính nó tức tâm vương đã sáng tạo ra. Nghĩa là cái Tâm con người, nó vừa tạo tác ra các nghiệp, lại vừa đóng vai
19/11/2017(Xem: 6642)
Con người trong mọi giới ngoài xã hội hiện nay tại các nước có Phật Giáo như Việt Nam, đến chùa xin Quy Y Tam Bảo được thấy rõ, là một tryền thống do con người tự chọn cho mình con đường giải thoát giống như ngày xưa lúc Phật còn tại thế, do tự nhận thức : Đạo Phật là con đường giải thoát, chứ Đức Phật từ ngàn xưa và chư Tăng rại các nước trên thế giới có Phật Giáo hiện hữu hôm nay, không khuyên mọi người phải và nên Quy Y Tam Bảo. Bởi vì đạo Phật, là đạo tự giác, tức là để cho con người tự do tìm hiểu giáo lý Phật. Sau đó thấy được đạo Phật là con đường giải thoát sinh tử khổ đau thực sự mà phương tiện là giáo lý, qua quá trình tự tu, tự giác ngộ, thì mới phát nguyện xin quy y Tam Bảo. Qua đây cho ta thấy đạo Phật không phải là đạo cứu rỗi, bang phước giáng họa cho bất cứ ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]