Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Môn Lễ Sám ( do HT Thích Trí Thủ biên soạn)

22/06/202005:02(Xem: 4478)
Pháp Môn Lễ Sám ( do HT Thích Trí Thủ biên soạn)

HT Thich Tri Thu_6
PHÁP MÔN LỄ SÁM
Biên soạn: HT Thích Trí Thủ


Qua kinh nghiệm bản thân suốt hơn hai mươi năm tu niệm, pháp môn Lễ sám này quả có đem lại rất nhiều lợi ích thăng tiến, tự mình kiểm chứng được.

Nay ghi lại để làm nghi thức hướng dẫn người hậu học, tôi không nhắm riêng chúng Ưu bà di của các Phật học viện vốn đã theo pháp môn này từ lâu, mà còn mong mở rộng phạm vi cho nhiều giới khác nữa. Bất cứ ai muốn tiến bước trên đường đạo hạnh, đều có thể tùy nghi, qui định khắc biểu áp dụng pháp môn này để tu niệm hàng ngày. Lợi ích thu hoạch thảy đều giống nhau.

Nghi thức gồm hai phần chánh: Tưởng niệm và Lễ bái.

A. TƯỞNG NIỆM.

Trước hết, tập trung tất cả lòng thành kính, thắp ba cây hương cắm trước Phật đài. Với làn khói hương nhẹ tỏa, nén tâm hương của chính mình cũng đang được đốt lên và quyện theo, để dâng lên Tam bảo và mười phương chư Phật, chư Bồ tát.

Sau khi dâng hương, vận hết lòng chí thành đảnh lễ Tam bảo. Vì Tam bảo là chỗ hướng tâm qui túc duy nhất của kẻ tín ngưỡng đạo Phật từ khi sơ phát tâm qui y cho đến phút cuối cùng chứng quả Vô thượng bồ đề.

Kế đến, để loại trừ tạp niệm, đứng hay ngồi ngay ngắn, ôn lại trong tâm mình những lời thệ nguyện đã phát biểu trong lễ qui y trước kia, như: Đã qui y Tam bảo rồi thì tuyệt đối từ đời này qua kiếp khác không qui y trời, thần, quỉ, vật; không nghe theo ngoại đạo tà giáo; không theo đòi bạn bè xấu ác. Sở dĩ chỉ qui túc về Tam bảo là vì Phật có dạy đủ cả phước đức và trí huệ, Pháp có công năng ly dục, Tăng là hàng lãnh đạo cao quí nhất của Đại chúng, .v.v...

Tiếp theo suy nghĩ rằng, trước khi ta chưa qui y Tam bảo, trong dòng đời vô tận, từ vô thỉ đến nay, không thể nào ta không vấp phải những tội lỗi, hoặc do thân tạo tác, hoặc do miệng nói phô, hoặc do ý suy nghĩ. Giờ đây, ta phải thành tâm sám hối để cho thân tâm trong sạch. Và để ngăn ngừa tội lỗi mới, ta phải tự nhắc lại hoặc đọc lâm râm, những giới điều đã lãnh thọ mà nguyện cố giữ gìn không sai phạm. Không nên ham hố thực hành nhiều giới cùng một lúc. Bắt đầu nên nguyện giữ tối đa hai giới, tùy theo mình lựa chọn. Sau khi các giới ấy giữ trọn, sẽ tuần tự phát nguyện giữ thêm các giới khác. Biết điều dở phải tránh và điều hay để noi theo, sự biết ấy có thể đến một cách chớp nhoáng nhưng thực hiện sự biết ấy thế nào cho “hành cố ngôn” (việc làm đúng với lời nói) là một việc đòi Hỏi: công phu lâu dài và tiến hành có thứ tự. Chỉ sau khi “hành cố ngôn”, bấy giờ mới gọi là thật biết, thật hiểu.


B. LỄ BÁI
.

Khi lòng thành kính đối với Tam bảo và ý chí cương quyết thực hành hạnh nguyện đã phô bày đầy đủ, bấy giờ chí tâm đảnh lễ chư Phật, chư Bồ tát.

Sự đảnh lễ nầy chỉ thật sự lợi ích, nếu mình hiểu rõ vì sao phải đảnh lễ và hiểu rõ ý nghĩa của các danh hiệu Phật và Bồ tát. Trong các kinh, Phật dạy rằng qua đời mạt pháp, nếu ai nghe được danh hiệu của các đức Phật, nhất là bảy đức Phật trong đời quá khứ thì được tăng tiến vô lượng phước đức và tiêu diệt vô lượng tội khổ. Pháp xưng danh hiệu và đảnh lễ các danh hiệu bắt nguồn từ đó.

1. ĐẢNH LỄ THẬP HIỆU.

Đức Phật nào cũng có đầy đủ mười công đức, hay mười danh hiệu như nhau, là: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật thế tôn. Thế tôn là danh từ bao gồm mười công đức, hay mười danh hiệu nói chung.

Nếu đủ thì giờ, nên lạy mỗi danh hiệu một lạy càng tốt. Bằng không thì lạy chung cả mười danh hiệu một lạy.

2. ĐẢNH LỄ THẤT PHẬT.

Thất Phật là bảy đức Phật trong đời quá khứ, gồm có: Tỳ bà thi Phật, Thi khí Phật, Tỳ xá phù Phật, Câu lưu tôn Phật, Câu na hàm Mâu ni Phật, Ca diếp Phật và Thích ca Mâu ni Phật.

Mỗi lần đọc một danh hiệu, lạy một lạy.

3. ĐẢNH LỄ TAM THÂN.

Tam thân là ba thân Phật, gồm có: Pháp thân, báo thân và hóa thân. Pháp thân tức Thanh tịnh Diệu pháp thân Tỳ lô giá na Phật, Tàu dịch là Quang minh biến chiếu (Thân ánh sáng nhiệm mầu soi suốt mọi nơi). Báo thân tức Viên mãn Báo thân Lô xá na Phật, Tàu dịch là Tịnh mãn (Thân thanh tịnh viên mãn công đức). Hóa thân tức Thiên bách ức hóa thân, là thân mà Phật ứng hiện tùy theo cơ cảm của chúng sanh cũng như tùy theo từng chủng loại chúng sanh để thuyết pháp giáo hóa.

Trong quá khứ, bảy đức Phật đều chứng được ba thân. Vì vậy, đảnh lễ ba thân mỗi thân một lạy, là để tâm nguyện cầu được chứng ba thân như Phật, hầu mong cứu độ chúng sanh như Phật.

4. ĐẢNH LỄ BỔN SƯ.

Trong thất Phật, đức Thích ca Mâu ni là vị thứ bảy, nhưng vì Ngài là Giáo chủ hiện thân thuyết pháp trong cõi Ta bà nầy và nhờ có Ngài, ta mới có giáo pháp tu hành ngày nay, nên đặc biệt xưng danh hiệu Ngài thêm một lần nữa và lạy một lạy. Đảnh lễ Ngài là để tỏ lòng tri ân sâu xa, nguyện vâng lời dạy dỗ để tự lợi lợi tha, hầu báo đền ân đức Ngài trong muôn một.

5. ĐẢNH LỄ DƯỢC SƯ.

Đảnh lễ đức Phật Dược Sư là vì theo kinh Dược sư, Ngài có mười hai đại nguyện thường phóng hào quang tiêu trừ nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng cho chúng sanh, che chở cho chúng sanh luôn luôn thân tâm được dõng mãnh. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện trong kiếp hiện sống thân tâm thường an lạc.

6. ĐẢNH LỄ DI ĐÀ.

Đảnh lễ đức Phật A Di Đà là vì, trong 48 đại nguyện của Ngài, ba đại nguyện 18, 19 và 35 xác quyết sẽ rước tất cả chúng sanh có lời cầu xin về tịnh độ Tây phương của Ngài. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện về sau đến ngày lâm chung, được Ngài và thánh chúng phóng hào quang tiếp dẫn, biết trước giờ chết, thân không tật bệnh, tâm không tham luyến, ý không tán loạn.

7. ĐẢNH LỄ DI LẶC.

Đảnh lễ đức Phật Di Lặc là vì, Ngài có lời đại nguyện sẽ cứu độ tất cả chúng sanh trong hội Long hoa khi Ngài giáng sinh. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được gặp Ngài trong đại hội ấy và được Ngài thọ ký.

8. ĐẢNH LỄ VĂN THÙ .

Đảnh lễ đức Bồ tát Văn thù là vì Ngài chính là ánh sáng trí huệ hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện trí huệ luôn luôn soi sáng ta, nhằm diệt trừ phiền não vô minh.

9. ĐẢNH LỄ PHỔ HIỀN.

Đảnh lễ đức Bồ tát Phổ Hiền là vì Ngài chính là công hạnh cứu độ hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được đại hạnh ấy, khiến ai trông thấy bóng ta cũng như nghe tên ta thảy đều hoan hỷ tán thán phát tâm qui ngưỡng Tam bảo.

10. ĐẢNH LỄ QUÁN ÂM.

Đảnh lễ đức Bồ tát Quán thế âm là vì Ngài chính là công đức đại bi hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được thâu nhiếp trong đức đại bi cứu khổ của Ngài.

11. ĐẢNH LỄ THẾ CHÍ.

Đảnh lễ đức Bồ tát Đại thế chí là vì Ngài chính là công đức đại hùng đại lực hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được một chí hướng dũng cảm lướt qua mọi trở ngại ma chướng mà tinh tấn tu hành.

12. ĐẢNH LỄ DƯỢC VƯƠNG DƯỢC THƯỢNG.

Đảnh lễ hai đức Bồ tát Dược vương và Dược thượng là vì hai Ngài chính là chí lón hy sinh hiện thân, từng thiêu thân cúng dường Phật để phụng sự chúnbg sanh như đã nói trong kinh Pháp hoa. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được ý chí dũng mãnh sẵn sàng mọi hy sinh.

13. ĐẢNH LỄ NHẬT QUANG BIẾN CHIẾU VÀ NGUYỆT QUANG BIẾN CHIẾU.

Đảnh lễ hai đức Bồ tát này là vì hai Ngài chính là công năng sáng soi hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được luôn luôn sáng suốt để diệt trừ tối tăm mê muội như trong kinh Dược sư đãù nói.

14. ĐẢNH LỄ CHUẨN ĐỀ .

Đảnh lễ đức Bồ tát Chuẩn đề là vì Ngài chính là oai lực hàng ma hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được đủ oai lực hàng phục tất cả tà ma quỉ mỵ quấy nhiễu.

15. ĐẢNH LỄ THANH TỊNH ĐẠI HẢI CHÚNG BỒ TÁT.

Đảnh lễ chư Bồ tát trong pháp giới thanh tịnh là vì các Ngài chính là bản thể thanh tịnh hiện thân. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy là để cầu nguyện được luôn luôn thanh tịnh mà cứu độ chúng sanh như các Ngài Địa tạng, Thường bất khinh v.v...

16. ĐẢNH LỄ LINH SƠN HỘI THƯỢNG, VÔ LƯỢNG THÁNH HIỀN .

Hồi Phật còn tại thế, 1.250 vị đại A la hán thường quây quần nghe Phật thuyết pháp trên núi Linh sơn. Vì vậy, xưng danh hiệu và lạy, tức là tỏ ra còn ghi nhớ và biết ơn công đức cao dày của Phật và chư vị thánh hiền tăng ấy, và tưởng tượng như cao hội ấy vẫn còn đâu đó.

17. ĐẢNH LỄ TAM TẠNG GIÁO ĐIỂN VÀ ĐỀ MỤC KINH.

Phật dạy: Nếu không đọc tụng được toàn bộ kinh điển mà chỉ đọc tụng những đề mục kinh cũng được vô lượng phước đức, nhất là kinh điển Đại thừa như Hoa nghiêm, Bát nhã, Pháp hoa, Niết bàn v.v... Những bài kệ trước đề kinh là những bài tóm tắt ý nghĩa đại cương toàn bộ kinh văn, nếu suy nghiệm cho thấu đáo những đề kinh và những bài kệ ấy cũng có thể hiểu đại cương cốt tủy của toàn bộ. Xưng danh và lạy Tam tạng giáo điển và các đề mục kinh là vì nhắm lợi ích ấy.

18. ĐẢNH LỄ HỘ PHÁP THIÊN THẦN VÀ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ.

Giáo pháp Phật sở dĩ còn lưu truyền đến ngày nay là nhờ công đức hộ trì của Thiên thần Hộ pháp và công đức truyền thọ của chư Tổ trải qua các thời đại. Xưng danh và lạy là để tỏ lòng tri ân và nguyện noi gương, hầu mong Chánh pháp lưu truyền miên viễn khắp thế gian, lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

19. LẠY THẾ TỨ ÂN.

Tứ ân tức bốn ơn: ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, ơn thầy bạn dạy bảo dìu dắt, ơn quốc gia xây dựng trật tự, ơn xã hội đàn na thí chủ cung cấp mọi tiện nghi sinh hoạt vật chất tinh thần. Xưng danh và lạy thế là để tỏ lòng tri ân và luôn luôn cầu nguyện cho tất cả, hiện còn thì được an vui, quá vãng thì đồng sanh Lạc quốc, nguyện đời đời kiếp kiếp được cùng nhau làm Từ bi quyến thuộc, dắt dìu nhau tu hành, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, đồng thành đạo quả.

20. LẠY THẾ CHÚNG SANH .

Ngoài bốn ơn trên, ta còn phải ghi ơn tất cả chúng sanh đã giúp ta trong cuộc hỗ tương sanh tồn nầy. Bất luận người oán kẻ thân, hữu tình hay vô tình, dù thuận dù nghịch, tất cả đều đã giúp ích cho ta. Vì đã giúp ích cho ta, nên ta chỉ biết có ân mà không cưu oán. Xưng danh và lạy thế là để tỏ lòng tri ân ấy và nguyện tất cả đều thành Phật đạo.

Lễ bái xong, ngồi kiết già hay quì mà tụng niệm. Phương pháp tu hành theo lời Phật dạy có đến 84.000 pháp môn, nhưng dễ dàng nhất, hiệu quả mau chóng nhất và thích hợp với căn cơ hiện tại nhất thì không pháp môn nào bằng pháp môn Tịnh độ.

Chỉ chuyên tâm niệm Phật, nhớ bốn đức tướng Từ Bi Hỷ Xả của Phật, tưởng tượng hình tướng và cảnh Tịnh độ trang nghiêm thanh tịnh đẹp đẽ của Phật A Di Đà, đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng như lúc nào, trước bàn Phật cũng như trong phòng ngủ, chuyên tâm tưởng niệm không gián đoạn, sẽ được nhất tâm bất loạn, khi lâm chung nhất định thấy Phật, sanh về cảnh giới Phật, thoát li sanh tử luân hồi, chứng quả vô thượng chánh giác (quả Phật). Phương pháp niệm Phật nguyện sanh Tịnh độ là phương pháp hay nhất, mười người tu mười người kết quả, không sợ lạc về đường ma lối quỷ như các pháp môn thiền quán khác. Tuy nhiên, ta đừng thấy pháp môn tu hành dễ dàng như thế mà lười nhác cẩu thả.

Giáo nghĩa của pháp môn này thật ra hết sức cao sâu vi diệu, mà nền tảng là ‘Tâm tịnh tức Phật độ tịnh’ hay ‘Tự tánh Di Đà, duy Tâm tịnh độ’. Căn cơ trung bình không dễ gì nghiên cứu giáo nghĩa của pháp môn này mà thấu hiểu nổi, nhưng ta cứ thực hành rồi cũng sẽ thông suốt và thật chứng.

Cuộc đời của chúng sanh tội lỗi hay phước đức đều theo ba nghiệp: thân hành động, miệng nói phô, ý suy nghĩ mà gây ra. Nay ta tu hành, một khi đứng nghiêm chỉnh trước Phật đài, lễ Phật tụng niệm, thân thể sạch sẽ trang nghiêm, hai tay xếp lại, mắt nhìn lên hình dung đức Phật, miệng niệm danh hiệu Phật, ý suy nghĩ lời Phật dạy, ba nghiệp ta sẽ thanh tịnh, tội chướng sẽ tiêu tan, phước đức sẽ tăng trưởng. Ngày nào cũng như ngày nào đều đặn như vậy, chắc chắn ta sẽ được thành Phật như đức Phật đã thành. Cho nên Phật dạy: ‘Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành’.

Đời của chúng ta sau này đọa lạc đau khổ hay thăng hóa an vui, đều do nghiệp lực (năng lực hành động thiện ác của ba nghiệp) và nguyện lực (năng lực thệ nguyện) hướng dẫn. Phương pháp lễ sám và tụng niệm nầy gồm cả hành động tức nghiệp lực và nguyện lực giúp nhau, chắc chắn chúng ta sẽ thâu hoạch kết quả như ý muốn. Các bậc tu hành tiền bối của chúng ta khi lâm chung một cách thanh thoát, chánh niệm phân minh, đã chứng minh điều nói trên. Chúng ta phải giữ đức tin một cách kiên quyết thì thế nào cũng có kết quả tốt đẹp. Tín, Hạnh, Nguyện là ba điều căn bản của pháp môn tu Tịnh độ. Tín không vững chắc, hạnh không liên viễn và nguyện không tha thiết, thì khó có kết quả. Mong ai đã phát tâm tu hành nên lưu ý điều ấy.

Kinh chép ngày xưa có một thiếu nữ thường bị ma quỷ ám ảnh quấy phá, tìm hết mọi phép bùa chú để yểm đuổi mà không được và càng ngày bệnh hoạn càng sanh. Về sau gặp một tăng sĩ, cầu xin cứu chữa, được tăng sĩ khuyên qui y Tam bảo. Thiếu nữ ấy nghe theo, hàng ngày sáng sớm ngủ dậy chỉ đọc ba pháp qui y ‘qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng’ và thọ trì năm điều cấm giới. Tự nhiên lành bệnh, thân tâm được an vui. Cho nên theo phương pháp này mà tu trì lễ tụng, không những lợi ích cho tương lai mà hiện tại cũng nhẹ nhàng an lạc.

Trước khi chuyên tâm niệm Phật, nên tụng chú Đại bi và kinh Bát nhã. Lúc tụng chú Đại bi ta phải vận dụng tâm niệm nhập từ bi quán.

Phương pháp nhập từ bi quán là: trước hết, khởi niệm thương thân người của ta, ví nhờ nó và có nó làm phương tiện, ta mới tiến tu cầu giải thoát. Phật dạy: Loài người là loài dễ tu chứng nhất vì nó không quá khổ cũng không quá sướng. Quá khổ như các loài súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục bị khổ đau dồn dập, phiền não chồng chất, muốn tu cũng không tu nổi vì không có thì giờ. Quá sướng như các loài mãi mãi vùi mình trong lạc cảnh hữu lậu, nên không lưu tâm đến vấn đề tu tỉnh, thì lấy đâu được giải thoát? Nay ta được thọ thân người, ta cần phải thương nó, bảo vệ nó để cầu tiến trên con đường tu chứng và giải thoát. Thứ đến, cũng theo nghĩa đó, ta thương đến dòng họ bà con, làng xóm quê hương ta, quốc gia xã hội , rồi lần lần ta thương đến kẻ thù của ta và cả nhân loại chúng sanh, một cách tha thiết chân thành. Rồi với lòng từ bi đó, ta tìm mọi cách hướng dẫn họ, giúp đỡ họ, cứu khổ ban vui cho họ.

Bát nhã là kinh nói về trí huệ. Trí huệ là sự nghiệp duy nhất của người con Phật. Nếu trí huệ không sáng suốt, không thể cầu giải thoát được. Do đó trong 49 năm đức Phật thuyết pháp độ sanh, Ngài đã phải dùng đến hai mươi hai năm nói kinh Bát nhã.

Trong kinh Nhị khóa hiệp giải dạy rằng: hằng ngày hàng con Phật chúng ta, người nào thọ trì hoặc đọc tụng được năm biến Đại bi và năm biến Bát nhã, rồi chí thành niệm danh hiệu Phật (nếu không có thì giờ rảnh thì tụng mỗi thứ một biến) thì tất cả tai ương hoạn nạn được tiêu trừ; hiện tiền hạnh phúc gia đình được tròn đầy; lâm chung được về cõi Phật.


Nha Trang, ngày 14 tháng 10 năm 1968



 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 783)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 1326)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2313)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 1993)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 2017)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 3000)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 5876)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 20330)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10645)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 4471)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567