Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Học Theo Đức Phật

08/05/202008:14(Xem: 4755)
Tu Học Theo Đức Phật


Phat_thanh_dao

Tu Học Theo Đức Phật

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.

Lúc còn trẻ, Ngài được hưởng một nền giáo dục hoàn bị để trở thành một vị Thái Tử kế vị ngai vàng. Văn võ kiêm toàn, tài đức viên dung, nhưng tâm hồn Ngài thường ưu tư về những nỗi khổ sanh, già, bệnh chết cho bản thân, nhân loại và chúng sanh. Năm lên 9 tuổi, trong lễ hội cày đất trồng trọt đầu năm mới của vương quốc, Ngài lặng lẻ ngồi tréo chân một mình dưới bóng mát cây hồng táo, hít vào thở ra trong khi vẫn duy trì cái biết về hơi thở của mình, không để ý gì đến tiếng nói cười, ca hát và các hoạt động náo nhiệt xung quanh (1). Chính kinh nghiệm thiền định nầy giúp Ngài giác ngộ về sau.

Nhằm giữ chân Thái Tử với sứ mệnh đế vương, năm lên 16 tuổi, Vua Tịnh Phạn sắp đặt cho Ngài cưới vợ là Công Chúa Gia Du Đà La tài sắc vẹn toàn, đồng thời cung ứng một cuộc sống thật xa hoa lộng lẫy. Nhưng đến năm 29 tuổi, sau khi con trai La Hầu La ra đời, Ngài đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để băng rừng vượt suối xuất gia tìm đạo giải thoát cho tất cả chúng sanh.

Lúc đầu, Ngài tìm học và tu tập tại các chúng hội với những đạo sĩ nổi tiếng như Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Rồi Ngài thấy kết quả đạt được qua tầng thiền cao nhất của yoga là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ không hướng đến ly tham, không hướng đến Niết Bàn (2), nên Ngài đã chuyển qua tu khổ hạnh cùng năm đạo sĩ do Kiều Trần Như hướng dẫn.

Sau gần 6 năm nỗ lực khổ hạnh, thân hình chỉ còn da bọc xương cho đến kiệt sức, Ngài ngất xỉu. Duyên lành có cô Sujata dâng bát sữa giúp Ngài tỉnh lại. Trong cơn bế tắc cùng cực của mọi cách tu luyện, Ngài nhận ra lối tu Trung Đạo, không lợi dưỡng phóng túng mà cũng không ép xác cực đoan. Ngài khất thực ăn uống trở lại để có sức khỏe, đồng thời Ngài nhớ lại và thiền tập theo cách thở mà Ngài đã có kinh nghiệm khi còn 9 tuổi. Năm người bạn đồng tu khổ hạnh cho rằng Ngài đã thối chí nên bỏ đi nơi khác. Dù sao, thời gian tu khổ hạnh cũng giúp Ngài đạt được những kết quả cụ thể: thân tâm hoàn toàn trong sạch và rất vững chắc; những tình cảm quá khứ không còn len lỏi gợn lên trong tâm; những ma chướng như tự cao, bất mãn, ái dục, đói khát, cực khổ, hôn trầm, dã dượi, sợ hãi, hoài nghi v.v… không còn quấy nhiễu tâm trí; siêng năng tu tập thiền định (3).

Cách thở do Ngài tự tìm thấy gọi là “lặng biết” (sati-samadhi) rất hiệu quả: không còn vọng tưởng, mà chỉ là một dòng biết lặng lẽ về sự vào ra của hơi thở hoặc bất cứ đối tượng nào; chỉ có cái biết mà không có nguời biết, tức là cái biết như thật (awareness-as-it-is) (4). Ngài biết rõ những hỷ lạc toàn thân qua các tầng thiền định nhưng không dính mắc. Rồi tâm của Ngài hoàn toàn định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh (5).

Thanh thản chìm sâu vào đại định, cuối cùng Phật tánh nơi Ngài bừng sáng, kiến giải rõ ràng những bế tắc trong quá trình tu tập. Ngài chứng Tam Minh: Túc Mạng Minh: nhớ rõ chi tiết vô lượng kiếp trước của mình; Thiên Nhãn Minh: thấy rõ chúng sanh chết từ kiếp này, tái sanh vào kiếp khác do hành nghiệp của họ; Lậu Tận Minh: biết như thật về khổ, nguyên nhân và cách diệt khổ; biết như thật về lậu hoặc, nguyên nhân và cách trừ lậu hoặc. Nhờ biết như vậy, tâm Ngài thoát khỏi tất cả lậu hoặc. Ngài biết: “Ta đã giải thoát”. Ngài biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa” (6) Lúc ấy Ngài 35 tuổi.

Sau khi giác ngộ, Ngài còn quanh quẩn nơi cội Bồ Đề thêm 7 tuần nữa để chiêm nghiệm lại các Pháp mà Ngài vừa thành tựu. Trong đó có Lý Duyên Khởi được xem là mấu chốt của sự thành đạo: “Cái này có nên cái kia có. Cái này sanh nên cái kia sanh. Cái này không nên cái kia không. Cái này diệt nên cái kia diệt”.                       
                                                     

Từ đó, Ngài đi chân trần khắp lưu vực sông Hằng và các vùng lân cận để giảng dạy đạo Giác Ngộ, Giải Thoát khỏi sinh tử luân hồi. Trước tiên, Ngài định hóa độ cho hai vị Thầy cũ nhưng được biết hai vị đã từ trần. Ngài đến Vườn Lộc Uyển tại Benares dạy đạo cho 5 người bạn cùng tu khổ hạnh trước đây. Vậy là Ngôi Tam Bảo tại thế gian đã được hình thành, trong đó Phật là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Pháp là bài Tứ Diệu Đế, Tăng là Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama (Ma Ha Nam), Assaji (Mã Thắng).

Ngài hóa độ vô số đệ tử không phân chia giai cấp xã hội, vua quan, dân chúng, nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, trí thức, bình dân, chủng tộc hay quốc độ. Lời dạy của Ngài đi từ dễ đến khó, từ thấp tới cao, phù hợp với căn cơ từng người nên ai cũng có thể đi vào Chánh Pháp được. Từ các bài Pháp căn bản như Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo, Ngài dẫn dắt đệ tử tiến dần lên các thực hành về tánh không, vô ngã, vô thường, Niết Bàn. Lý Duyên Khởi chỉ rõ các pháp nương vào nhau mà sinh, thành, hoại, diệt nên không có nguyên nhân đầu tiên nào tạo ra vũ trụ. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mỗi chúng sanh phải chịu trách nhiệm về vận mệnh của mình. Và, Giác Ngộ, Giải Thoát, Niết Bàn có ngay tại đây và bây giờ. Như Lai và các bậc Giác Ngộ khác không từ đâu đến, cũng không đi về đâu (7).

Tăng Đoàn của Ngài có những người trước đây thuộc giai cấp hạ tiện, có cả người nữ xuất gia. Có đến 1250 Tăng, Ni chứng quả A La Hán, nhiều nam nữ cư sĩ đắc Thánh quả và vô số người nếm được hương vị an vui, giải thoát. Sau 45 năm hoằng Pháp độ sanh, Đức Phật nhập Vô Dư Y Niết Bàn lúc 80 tuổi tại Kusinara. Lịch Phật giáo bắt bắt đầu từ ngày này, cách đây 2564 năm (2020). Như vậy Ngài đản sanh cách đây 2564 + 80 = 2644 năm, trước dương lịch 2644 – 2020 = 624 năm (8).

Năm 249 trước dương lịch, Vua A Dục đến thăm nơi đức Phật đản sanh, đã cho xây dựng một cột trụ bằng đá, khắc chữ: “Hai mươi năm sau khi đăng quang, Thiên tử, vua Piyadasi đã viếng thăm và lễ bái nơi này bởi vì đây là nơi đức Phật Phật Thích Ca, Bậc Giác Ngộ đã ra đời. Thiên tử đã cho xây một tường đá bao bọc xung quanh và dựng một thạch trụ. Và vì đức Thế Tôn đản sanh ở đây, làng Lumbini được miễn thuế và chỉ đóng một phần tám nông sản” (9). Lâm Tỳ Ni đã bị bỏ quên trong nhiều thế kỷ. Mãi đến năm 1895, nhà khảo cổ người Đức Fuher mới tìm thấy được trụ đá vua A Dục. Các nhà nghiên cứu Tây phương gọi trụ đá nầy là Bản Khai Sanh của đức Phật.

Trong phiên họp khoáng đại ngày 15/12/1999, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị Quyết số 54/115, “Công nhận quốc tế về ngày Lễ Vesak tại Trụ Sở Liên Hiệp Quốc và các văn phòng liên hệ” (10). Lễ Vesak kỷ niệm ngày Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn của Đức Phật vào ngày Trăng Tròn tháng 5 dương lịch. Lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc cũng để tôn vinh đạo Phật là đạo Hòa Bình nhất thế giới!

Niết BànĐoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đây gọi là Niết-bàn”. Con đường đưa đến chứng đắc Niết Bàn là Bát Chánh Đạo: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định (11).



Sa Di Thông Đạo


Tham khảo

(1)   Đại Kinh Saccaka, số 36, Kinh Trung Bộ tập 1, trang 539. (2003). (Thích Minh Châu dịch). Hà Nội: NXB Tôn Giáo.

(2)   Kinh Thánh Cầu, Sđd, 372.

(3)   Luận Giảng Về Tiến Trình Tu Chứng và Thành Đạo của Đức Phật. (2014). Thông Triệt, trang 80. Perrri, CA: Hội Thiền Tánh Không.

(4)   Thông Triệt, Sđd, trang107.

(5)   Đại Kinh Saccaka, Sđd, trang 541.

(6)   Đại Kinh Saccaka Sđd. trang 543.

(7)   Kinh Kim Cang Lược Giải, Phật Học Phổ Thông, tập 3, trang 599. (2002). HT Thích Thiện Hoa. Hà Nội: NXB Tôn Giáo

(8)   Có nhiều ý kiến khác nhau về năm sinh của đức Phật. Tài liệu bài này dựa vào truyền thống Phật Giáo tại Việt Nam từ trước đến nay.

(9)   Đại Đế Asoka. (2007). Hộ Giác. Houston, TX: Chùa Pháp Luân.

(10) https://phatgiao.org.vn/lien-hiep-quoc-chinh-thuc-cong-nhan-ngay-vesak-tu-khi-nao-d13830.html.

(11) Kinh Tương Ưng Bộ tập 4, chương 4, Niết Bàn. http://www.daitangkinhvietnam.org/node/8605.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2012(Xem: 5028)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởng và trí thông minh của đệ tử nhận nó.
21/10/2012(Xem: 4083)
Tánh không là một trong những khái niệm quan trọng và khó thấu triệt nhất trong giáo lý Phật Giáo. Chủ đề này được triển khai và quảng bá suốt dòng lịch sử phát triển của Phật Giáo, và do đó cũng đã trở nên ngày càng tinh tế, sâu sắc và dường như lại càng phức tạp hơn.
20/10/2012(Xem: 3503)
Hai ngày qua tôi nghĩ quý vị đã lắng nghe một cách rất nghiêm túc nên tôi rất hạnh phúc, tốt lắm. Bây giờ là chương trình hỏi đáp, quý vị có câu hỏi gì?
05/10/2012(Xem: 7294)
Dẫu rằng, các lần kiết tập thứ nhất, hai và ba không đề cập đến tên các kinh điển của Phật giáo Đại thừa, chỉ đề cập đến 5 bộ Nikāya và 4 bộ A-hàm nhưng nội dung tư tưởng trong các kinh điển của Phật giáo Đại thừa đều có nguồn gốc từ các kinh trong A hàm và Nikaya.
04/10/2012(Xem: 4398)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
03/10/2012(Xem: 3851)
Sau bốn mươi chín ngày tham thiền nhập định dưới cội tất-bát-la, đức Thế Tôn chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bừng khai tuệ nhãn, thấy rõ chúng sanh hiện hữu khắp trong tứ sanh lục đạo đều có chung một thể tánh viên minh, thanh tịnh vắng lặng mà bất cứ một ai nếu hồi tâm phản chiếu, thực tâm tu tập đều có thể thành tựu thánh quả an lạc giải thoát. Qua đó chứng tỏ: đạo không ở đâu xa mà đạo ở trong tự thân của mỗi người. Mỗi con người là một vị Phật nhưng vì chơn tâm bị vô minh che lấp nên việc thành Phật, tác Tổ không thể chứng nhập; vì vậy chúng ta có thể biết rằng lục phàm tứ Thánh không ngoài cái tâm. Điều đó đã được chứng minh rất rõ ràng trong tam tạng thánh điển mà cụ thể là trong kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng: “Ta ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Tri kiến Phật ở đây khi ở chúng sanh chính là Phật tánh còn khi ở loài vô tình gọi là pháp tánh. Rõ ràng hơn nữa, qua một số trích dẫn sau, chúng ta sẽ thấy rõ người xưa hiểu Phật
26/09/2012(Xem: 3569)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
18/09/2012(Xem: 13244)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
17/09/2012(Xem: 2765)
HỎI: Vì triết lý của Đạo Phật là không làm tổn hại, chỉ làm lợi ích cho người khác, trong trường hợp của những quyết định thực tiển trong đời sống hàng ngày, nếu ai ấy muốn giết ta và ta không có cách nào để thoát khỏi, ta phải làm gì? ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Từ một nhận thức rộng hơn, mục tiêu của đời sống hiện tại của chúng ta là gì? Chúng ta cũng nên phán xét khả năng của ta khi quan tâm đến việc ta có thể làm lợi ích và hổ trợ người khác được bao nhiêu? Dĩ nhiên nếu ai đấy tấn công ta, ta nên trốn thoát hay tránh sự tấn công. Nếu không có khả năng khác, thì tôi nghĩ đấy là quyền cá nhân để tự bảo vệ. Vì thế không có sự giết chóc, chúng ta có lẻ có thể làm tổn thương chân hay tay của người tấn công. Như thế, nếu quý vị phải chọn lựa.
08/09/2012(Xem: 6057)
Ngày nay, biểu hiện của xa hoa lợi dưỡng trong nếp sống tu hành của người tu sĩ Phật giáo vượt xa thời Đức Phật tại thế. Ngày xưa lợi dưỡng, xa hoa của người tu sĩ Phật giáo chỉ là sự thọ nhận cúng dường vượt trội so với những người tu sĩ khác, từ đó, có được sự cung kính, danh vọng, nể trọng, tự cao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]