Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Theo Viên Giác

01/03/202016:44(Xem: 11818)
Tu Theo Viên Giác

Chua Long Son (8)
Tu Theo Viên Giác

(Phẩm Bồ Tát Phổ Hiền Hỏi Phật)

 

Phần Dẫn Nhập:

Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.

Kinh Viên Giác có tên là Đại Phương Quảng Tu Đà La Liễu Nghĩa do ngài Phật Đà Đa La (Buddhayas’as) nước Kế Tân (Kashmir bây giờ) đương thời nhà Đường dịch ra tiếng Trung Hoa. Tôi không biết có bao nhiêu cao tăng Việt Nam dịch Kinh Viên Giác từ Hán Văn sang Việt Văn. Trước mắt tôi có các bản dịch: Một là của cụ Thích Huyền Cơ dịch năm 1951 tại Hà Nội và bản dịch của HT. Thích Thiện Hoa năm 1957 tại Sài Gòn. Bản dịch thứ ba của HT. Thích Trí Quang năm 1985, bản thứ tư của thầy Thích Duy Lực năm 1991. Và bản thứ năm của thầy Thích Hằng Đạt không ghi rõ năm.

            Trong phần giới thiệu bản dịch, Cụ Thích Huyền Cơ nói rằng, “Bộ Kinh Viên Giác này thuộc về loại kinh cao. So theo tứ giáo (*) và nói theo phân biệt thì nó cao hơn Viên Giáo. Nó không những là bao hết tứ giáo như gương trong sáng, gặp vật gì cũng hiện rõ, lại còn trên cỡ phân biệt của tứ giáo. Nó không thuộc phạm vi phân biệt. Nó là hiện tượng không danh từ.”

            Cư sĩ Tuệ Quang đã từng gặp và học pháp nơi cụ Huyền Cơ, trong phần giới thiệu sách ghi năm 1964, đã viết, “Đọc tới, ta sẽ bàng hoàng kinh ngạc, không ngờ đạo Phật cao siêu, vĩ đại, đẹp đẽ đến thế. Cao đẹp về tư tưởng, cao đẹp về đức hạnh, về tâm hồn trong trắng cao quýAi đọc kinh này mà hiểu được, theo được, vị đó đã có rất nhiều duyên lành, kiếp trước đã tu nhiều, đã từng gần Phật.”

            Tôi may mắn được biết tới bộ kinh này khi còn ở Trại Cải Tạo Hà Tây khoảng năm 1980. Do một số anh em Phật tử trước khi đi trình diện cải tạo có đem theo bộ kinh này rồi do một nhân duyên thật hi hữu, gặp nhau, lén truyền tay nhau biên chép, nghiên cứu, đọc tụng. Trong số này có những vị đã giữ những chức vụ rất cao trong quân đội VNCH, khi định cư vào Mỹ thấy cuộc đời này chỉ là huyễn mộng, đã xuất gia và tu thiền. Riêng tôi vẫn còn nặng nợ trần ai, dù rất thích thú với kinh này, nhưng sau bao năm đọc tụng mà vẫn không sao hiểu hết được kinh. Từ đó tôi nghĩ rằng chỉ có Đức Phật mới hiểu hết Viên Giác mới nói được Viên Giác. Ngay hàng Bồ Tát cũng không thể hiểu hết Kinh Viên Giác. Từ đó, tôi không bao giờ có ý nghĩ ngông cuồng là “giảng” về Viên Giác mà chỉ dám ở mức khiêm tốn cố gắng hiểu và hiểu đến đâu thì nói ra. Do đó tôi mong các bậc cao minh nếu thấy có gì sai sót xin chỉ giáo cho.

            Tu Phật có nhiều pháp môn. Mỗi pháp môn thường trụ vào một bộ kinh nào đó, như Pháp Hoa Tông (Tu theo Kinh Pháp Hoa), Tịnh Độ Tông (lấy Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và Tiểu Bản A Di Đà làm căn bản). Mật Tông y vào giáo lý bí mật của Kinh Đại Nhật, Kinh Kim Cương Đính gọi là Mật Tông hay Chơn Ngôn Tông. Thiền Tông tuy nói “bất lập văn tự” nhưng yếu chỉ của Thiền Tông đều nằm trong Lăng Già, Kim Cang và Bát Nhã. Còn tôi chưa thấy một tông phái nào tu theo Viên Giác. Do đó trong bài này tôi đưa ra một câu hỏi là, “Liệu chúng ta có thể tu theo Viên Giác được không?” Do đó tôi sẽ đi lần lượt từng chương để tìm hiểu mà tôi gọi đó là “tu theo Viên Giác”.

Phẩm Bồ Tát Phổ Hiền Hỏi Phật:

Phẩm này vô cùng quan trọng. Nó là mạng mạch là cốt tủy của đạo Phật. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều coi giáo lý, pháp môn tu của họ là có thật và cứu cánh. Ai không tin giáo lý của họ sẽ bị đày hỏa ngục. Chỉ riêng Phật chỉ ra rằng, pháp môn tu, giáo lý, lời giảng dạy cũng đều như huyễn. Nó chỉ là phương tiện giống như chiếc bè qua sông. Chúng ta hãy nghe Bồ Tát Phổ Hiền hỏi Phật:

Đại Bi Thế Tôn! Xin ngài nói cho các chúng Bồ Tát trong pháp hội và chúng sinh muốn tu đại thừa đời mạt pháp, nghe cảnh giới thạnh tịnh rồi làm thế nào mà tu hành? Thế Tôn! Nếu chúng sinh biết được là như huyễn thì thâm-tâm cũng huyễn làm thế nào lấy cái huyễn mà tu cái huyễn được? Còn như cái tính huyễn hết thì không có tâm, lấy gì mà tu hành? Làm sao lại nói là tu hành như huyễn?” (Thích Huyền Cơ)

            Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền rằng:

Tất cả các cảnh vật huyễn hóa (thế giới, chúng sanh) của chúng sanh đều sanh (hiện ra) trong tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai. Các pháp hư huyễn có diệt mà tánh viên giác vẫn không diệt. Cũng như hoa đóm sanh (hiện ra) trong hư không, các hoa đóm hư huyễn kia có hoại diệt mà hư không chẳng hề hoại diệt.” (Thích Thiện Hoa)

Và Phật dạy các phương pháp ly huyễn:

Này thiện nam tử! Tất cả các vị Bồ Tát và chúng sanh đời sau cần phải xa lìa các việc như sau: Xa lìa các cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Nhưng còn cái tâm biết xa lìa? Cái tâm biết xa lìa đó cũng là huyễn hóa nên phải xa lìa luôn. Cái “xa lìa” đó cũng là huyễn hóa cho nên cũng phải xa lìa. Cái “lìa cái xa lìa” cũng là huyễn hóa nên cũng phải xa lìa. Phải không còn gì để xa lìa nữa như thế mới gọi là trừ được các huyễn.” (Thích Thiện Hoa)

            Phật lấy một thí dụ rất cụ thể cho việc ly huyễn:

Tỷ như người lấy lửa dùng hai miếng củi tre cọ sát nhau. Cọ cho đến khi lửa phát ra, trở lại cháy củi. Cháy đến lúc củi hết, lửa tàn, tro bay, bấy giờ chỉ còn đất trống. Ly được huyễn tức là “giác” không có thứ tự, lớp lang, phương tiện gì.” (Thích Thiện Hoa)

            Qua phẩm này chúng ta thấy:

-Bồ Tát, chúng sinh, phàm phu vẫn có thể tu và cầu vào đại thừa. Đại thừa không phải là đặc hữu chỉ dành cho người xuất gia.

-Dù Phật dạy giáo pháp là như huyễn. Thế nhưng khi hành giả đang vượt sông (đang ly huyễn) thì phải nương tựa vào bè, phải ôm cứng lấy cái bè tức bám chặt vào giáo pháp. Chỉ khi nào qua sông (đáo bỉ ngạn, chứng đắc) thì mới quăng bỏ bè. Bất cứ ai còn đang tu hành mà xa lìa giáo pháp, lấy cớ đó là “như huyễn” thì chắc chắn kẻ đó hành tà đạo.

-Chúng sinh, trong đó có chúng ta, đang bị chi phối bởi những khổ đau thật sự đã đành, như: Cái chết, bệnh tật, thời tiết nóng lạnh, đói no, thiên tai… mà còn bị chi phối bởi những khổ đau giả tạo. Thắng bại, được thua, lòng ghen tuông, đố kỵ tỵ hiềm, lòng kiêu hãnh, tự tôn, tự ty mặc cảm...đều là huyễn hóa, đều là khổ đau giả tạo. Các ảo tưởng về quyền uy, về sự thánh thiện, về sức mạnh, về sự giàu sang, về vẻ đẹp…cũng đều là huyễn hóa. Khóc cười, yêu đương tha thiết cũng chỉ là huyễn hóa. Tất cả những gì đang diễn ra chung quanh chúng ta đều như màn kịch trên sân khấu, khóc cười trong giây lát. Khi sân khấu khép lại thì chẳng còn gì vì nó là huyễn hóa.

            Thế nhưng do nghiệp lực từ vô thủy, chúng sinh yêu mến huyễn hóa, nhiều khi đâm chém, thù hận, giết hại nhau vì những huyễn hóa của cái tâm quay đảo. Chư Phật và hàng Bồ Tát, đạo sĩ nhìn thấy mà xót thương. Xin nhớ, ly huyễn cũng là ly khổ hay diệt khổ. Người nào bớt sống với ảo tưởng, bớt sống với huyễn thì bớt khổ đau. Không bị tác động, bỏ qua đi, không chấp chứa gì hết chính là lấy huyễn tu huyễn. Cho nên những ai đang sống trong huyễn hoặc, sống trong thế giới ảo tưởng vừa làm khổ mình và làm khổ người nên đọc Kinh Viên Giác.

Bài thơ Đại Lãm Thần Quang Tự của Đức Vua Trần Nhân Tông dưới đây cho thấy ngài đã thấu suốt được sự huyễn hóa của cuộc đời:

Thần quang tự diểu hứng thiên u.
Sanh thố phi ô thiên thượng du.
Thập nhị lâu đài khai hoạ trục.
Tam thiên thế giới nhập thi mâu.
Tục đa biến thái vân thương cẩu. (*)
Tùng bất tri niên tăng bạch đầu.
Trừ khước chú hương tham Phật sự,
Tá dư niệm liễu tổng hưu hưu.

Dịch nghĩa

Chùa Thần Quang vắng lặng, hứng thú có nét u nhã riêng,
Chở ngọc thỏ, cưỡi kim ô du ngoạn trên bầu trời.
Mười hai toà lâu đài mở ra bức vẽ,
Ba nghìn thế giới thu vào mắt thơ.
Thói đời nhiều thay đổi như mây trắng hoá chó xanh,
Cây thông chẳng biết đến năm tháng, nhà sư đầu đã bạc.
Ngoài việc thắp hương tham thiền ra,
Mọi điều suy nghĩ đều cho qua đi hết. (**)

 

Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 29/2/2020)

(*) Lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ: Thiên thượng phù vân như bạch y. Tu du hốt biến vi thương cẩu

(Trên trời có đám mây nổi trông như áo trắng, phút chốc bỗng biến thành con chó xanh).

(**)Trong thơ văn Lý-Trần

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/01/2012(Xem: 2705)
Nếu chỉ vì ngũ quan không thể cảm nhận được mà ta quả quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không không, không có gì hết, thì cũng phi lý như người mù kết luận rằng trong đời không có ánh sáng, chỉ vì không bao giờ anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn "Rùa và Cá" được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa, cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của cá đều được rùa trả lời là "không". Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền. Cá hỏi: "Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp?" - Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa trả lời. - Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được? Tôi chưa bao giờ thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.
17/01/2012(Xem: 3554)
Hôm nay thể theo lời yêu cầu của chư Tăng Ni tại đây, chúng tôi sẽ thuyết một thời pháp cho tất cả Tăng Ni Phật tử nghe, với đề tài Cội gốc sanh tử và cội gốc Niết-bàn.
27/12/2011(Xem: 3431)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cảnhững nghiệp duyên từ trong những đời quá khứ mà kiến tạo ra con người trong kiếpnầy.
15/12/2011(Xem: 4171)
Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Vâng lệnh thầy Trụ trì và thầy Giáo thọ, Minh Tuệ tôi ra thất chia sẻ kinh nghiệm niệm Phật cho Phật tử chùa Tịnh Luật từ năm 2009. Sau hai năm làm Phật sự, tôi nhận thấy Phật tử nắm vững phương pháp hành trì, riêng bản thân tôi bị khựng lại. Do đó tôi ngỏ ý với Phật tử, sẽ vô thất trở lại. Phật tử nói: “Thầy vô thất, chúng con có khó khăn trở ngại đường tu, chúng con biết hỏi ai?”. Tôi trả lời không được. Dù rằng chùa Tịnh Luật còn lắm thầy giỏi hơn tôi nhiều, nhưng mỗi thầy có pháp tu riêng, không ai giống ai, nên có thể giải đáp không thỏa đáng chăng? Phật tử nói tiếp: “Vậy thầy giải đáp sẵn những khó khăn trở ngại, chướng nạn mà chúng con có thể gặp, để chúng con nương theo đó mà hành trì”. Đề nghị này rất có lý, mặc dù đối với khả năng hạn hẹp của tôi, thì đây không phải việc dễ làm. Trước tình thế không thể từ chối, tôi nói: “Vậy thì quý vị đặt những câu hỏi, tập trung lại đưa tôi trả lời”. Đây là lý do quyển “Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp” ra đời.
23/11/2011(Xem: 4829)
Có một lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều, đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. Vua Pasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôn cất lời hỏi vua Pasedani như sau: - Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúc trưa này ngài ở đâu?
16/11/2011(Xem: 4139)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người,mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
13/10/2011(Xem: 5695)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không nhầm lẫn với những lời dạy bởi các giáo chủ của các ngoại đạo khác qua: “Các hành là vô thường, các pháp vô ngã và, Niết-bàn tịch tĩnh” cho nên được gọi là ba pháp ấn. Ba phạm trù nội dung nghĩa lý này chúng luôn luôn phù hợp với chân lý cuộc sống qua mọi hiện tượng nhân sinh cùng vũ trụ.
04/10/2011(Xem: 3512)
KHÁC BIỆT GIỮA MA VÀ PHẬT (Trích lục từ Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Quang Minh Giác thứ chín) Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không Giảng tại: Học Viện Tịnh Tông Uc Châu. Thời gian: tháng 04 năm 2004
30/09/2011(Xem: 3114)
Thứ nhất: Việc của bản thân. Thứ hai: Việc của người khác. Thứ ba: Việc của Hoàn cảnh thiên nhiên trời đất. 1-Việc của bản thân: Mỗi sáng thức dậy, ta biết mình vẫn còn sống với một ngày mới như hôm nay mình làm gì, ăn uống ra sao, cần quan tâm và giúp đỡ những ai, ta sẽ cảm nhận phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại, vui buồn, khổ đau hay hạnh phúc… đều do ta quyết định, không một ai có thể ban phước giáng họa.
08/09/2011(Xem: 8063)
Sân hận và thù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ. Cuối cùng tôi thấy nhiều sự bất hòa (!) với giận dữ. Bằng việc sử dụng ý thức thông thường, với sự hỗ trợ của từ bi và tuệ trí, bây giờ tôi có một biện luận đầy năng lực để đánh bại sân hận... Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567