Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm sở: tàm quý

28/11/201510:29(Xem: 5348)
Tâm sở: tàm quý

phat thich ca

TÂM SỞ: TÀM-QUÝ
 


 

TÀM-QUÝ là hai tâm sở thiện trong "Đại Thiện Địa Pháp" của Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Pháp tướng Tông, gọi chung là: HỔ THẸN. Luận Câu Xá quyển 4 nêu ra 2 cách giải thích về Tàm và Quý như sau:

 

Cách thứ nhất: Tàm là lòng tôn kính các công đức và người có đức, Quý là lòng sợ tội lỗi.

 

Cách thứ hai: Tàm là khi mình phạm tội mặc dù không có ai biết nhưng tự cảm thấy hổ thẹn, còn Quý là khi mình tạo tội mọi người đều biết mà mình xấu hổ.

 

(Phật Quang Đại Từ Điển tập 4)

KINH TRUNG A HÀM

 

5. PHẨM TẬP TƯƠNG ƯNG

 

45. KINH TÀM QUÝ  

 

Tôi nghe như vầy:

 

Một thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc.

 

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:

 

“Nếu có Tỳ-kheo nào không tàm không quý thì làm tổn hại ái và kỉnh. Nếu không có ái và kỉnh thì làm tổn hại tín. Nếu không có tín thì làm tổn hại chánh tư duy. Nếu không có chánh tư duy thì làm tổn hại chánh niệm chánh trí. Nếu không có chánh niệm chánh trí thì làm tổn hại gìn giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu không giải thoát thì làm tổn hại Niết-bàn.

 

“Nếu Tỳ-kheo nào biết hổ thẹn thì có ái và kỉnh. Nếu có ái và kỉnh thì thường có tín. Nếu có tín thì thường có chánh tư duy. Nếu có chánh tư duy thì thường có chánh niệm chánh trí. Nếu có chánh niệm chánh trí thì thường giữ các căn, giữ giới, không hối hận, hân hoan, hỷ, tĩnh chỉ, lạc, định, tri kiến như thật, yếm ly, vô dục, giải thoát. Nếu giải thoát thì liền được Niết-bàn.

 

Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành. 

 

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Tàm quý,

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.259)

 

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

 

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

 

- Có hai diệu pháp ủng hộ thế gian. Thế nào là hai? Nghĩa là có tàm, có quý. Này các Tỳ-kheo, nếu không có hai pháp này, thế gian sẽ không phân biệt có cha, có mẹ, có anh, có em, có vợ con, tri thức, tôn trưởng, lớn nhỏ sẽ cùng lục súc heo, gà, chó, trâu, dê v.v... đồng một loại. Do thế gian có hai pháp này ủng hộ, nên thế gian ắt phân biệt có cha, có mẹ, anh em, vợ con, tôn trưởng, lớn nhỏ, cũng không đồng với lục súc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên tập có tàm, có quý. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

 

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

 

HT T.Trí Quảng cũng đã nói:

 

Hạnh TÀM QUÝ là thiện tâm sở rất quan trọng; vì không có hạnh này, người ta dễ tạo tội lỗi và đi vào thế giới ác ma. Cảm thấy xấu hổ khi người xem thường mình, cảm thấy xấu hổ khi được người kính trọng, nhưng thực sự mình không đáng kính trọng. Biết xấu hổ thì tiến tu được. Dẹp được tâm vô tàm vô quý, trí tuệ chúng ta sáng lần, thấy được việc chính xác hơn; với tâm trung thực, chúng ta mới nhận ra sai lầm của mình trước kia.

 

Theo tu viện Chơn Như: TÀM QUÝ

 

Tàm là mắc cỡ, xấu hổ trước mặt mọi người về một việc làm sai trái của mình.

Quý là tự mình cảm thấy xấu hổ về việc làm sai trái của mình mặc dù không có ai thấy, hay biết.

 

Người muốn giữ gìn giới luật mà không biết xấu hổ thì không bao giờ giữ gìn giới luật được. Cũng như người muốn tu thiện pháp mà không biết xấu hổ thì không bao giờ tu thiện pháp được.

Người muốn giữ gìn đức hạnh làm người, làm Thánh mà không biết xấu hổ thì chẳng bao giờ giữ gìn đức hạnh được. 

Người muốn tu hành giải thoát mà không biết xấu hổ thì không bao giờ có giải thoát được.

 

                    *****

                                

Qua kinh điển và lời giáo huấn của chư Tôn túc, Tàm-Quý là căn bản trong 11 thiện tâm sở, giúp cho "con" có giá trị làm người. Một người làm sai không biết hổ thẹn, hối lỗi thì người chỉ có giá trị của bản chất "con" như  bao con động vật khác.

 

Bậc cao đức do từ Tàm-Quý mà đã trở thành khiêm hạ trước mọi đối tượng. Có vị tu sĩ tuổi đã cao, thế mà nói chuyện với bất cứ ai cũng tự xưng mình là con. Họ không bao giờ dám xưng thầy đối với ai cho dù đức độ của họ đáng là bậc thầy. Ngược lại, người thiếu tính Tàm Quý thì thường xưng thầy trước mọi đối tượng, cho dù đối tượng đó đáng tuổi cha mẹ ông bà.

 

Thế gian vì thiếu tính Tàm - Quý mà không phân biệt đúng sai phải quấy đã đành; tôn giáo, một tu sĩ không có Tàm-Quý thì không còn nhân cách một tu sĩ. Cho dù đứng trước hàng vạn người thao thao bất tuyệt mà không biết Tàm-Quý có nghĩa là không biết xấu hổ việc sai phạm mình vừa làm thì có nghĩa biết rất nhiều, biết đủ thứ mà không biết xấu hổ, xem như không đủ nhân cách để làm thầy thiên hạ.

 

Đối nghĩa của Tàm-Quý là vô tàm, vô quý, là bất thiện tâm sở, một trong những chướng ngại lớn trên con đường tiến hóa tâm linh. Một khi  đã vô tàm vô quý thì sẽ không đủ trí tuệ phân biệt đúng sai, kiến thủ, chấp thủ. Cho dù kinh điển hay các bậc cao minh xác định điều đó là sai, nhưng vì vô tàm vô quý, cứ khư khư cố chấp nên đi xa chánh pháp, xa chính lý để tự mình chấp nhận con đường đi xuống; chẳng những thế còn đanh mất "ái" "kính". Ái kính không có thì "tín" cũng không có, dẫn đến không có chánh tư duy, đánh mất chánh niệm chánh định... lạc vào tà kiến, dẫn dắt đồ chúng sa vào ngụy tín.

 

Theo định nghĩa của Đại Tự điển Phật Quang, người biếtTàm là người có lòng tôn kính các công đức và người có đức, nghĩa là người biết khiêm hạ và biết lắng nghe, không xem sự hiểu biết của mình là vượt trội mọi người, thậm chí xem kinh điển là lỗi thời hạn hẹp... Tự mình lập thành học thuyết tà mị vì chối bỏ kinh điển cổ nhân. Người vô Tàm là người cao ngạo, không bao giờ biết tiến thủ. Còn Quý là lòng sợ tội lỗi. Vì không biết Quý nên không tội lỗi nào mà không dám làm. Có thể làm tội lỗi không ai biết nhưng người có lương tâm phải biết ăn năn sợ tội, vì không biết ăn năn sợ tội nên tiếp tục sa vào hành động sái quấy, chỉ che mắt được mọi người nhưng lương tâm không thể không cảm thấy sợ sệt, nếu phạm lỗi mà không biết sợ sệt thì thuộc dạng không còn thuốc chữa, thuộc loại nhất xiểng đề.

 

Tóm lại, TÀM-QUÝ là một trong 11 thiện tâm sở, là căn bản bước đầu cho việc tu tập của người con Phật đúng nghĩa. Sau khi Phật thành đạo triệt phá được ma quân nội tâm, dẫn dắt đệ tử tiếp tục hành trình chuyển hóa nghiệp chướng, khai mở tuệ giác, Ma vương bất lực, tuyên thệ trước mặt đức Thế tôn: 

 

Ta không phá được ngươi, ta thề sẽ phá đệ tử người sau khi người nhập diệt. Ăn cơm Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, trụ xứ Như Lai để hủy pháp Như Lai, đó là hiện tượng ngày nay đã xuất hiện khắp nơi mà trang mạng chỉ là một phát hiện nhỏ giữa cuộc sống bộn bề. Ma quân cũng như ma vương làm gì có Tàm-Quý!!!

 

 

MINH MẪN

27/11/2015

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2014(Xem: 5346)
Nhiều người , do chỉ nhìn sơ lược bên ngoài, nói đạo Phật là “sắc sắc không không” một cách mơ hồ. Điều này dễ dẫn đến nhìn đạo Phật như là một lối sống bi quan, yếm thế. Từ khi có thêm lối suy nghĩ của văn hóa Tây phương vào đầu thế kỉ 20, chữ Không và Giải thoát càng thêm bị hiểu lầm.
11/12/2014(Xem: 4151)
Khi bậc Thế Tôn Đại Giác nói rằng: "Vì một đại sự nhân duyên của chúng sanh ở thế gian Ta bà mà Như Lai xuất hiện ra đời." Vậy từ khi Chánh Giác Thế Tôn xuất hiện đến bây giờ chúng ta những người con của đấng Đạo Sư nhận được những sự lợi lạc gì trong đại sự nhân duyên đó. Lời của đấng Chánh Biến Tri là chân thật ngữ.
11/12/2014(Xem: 4380)
Thế giới ngày nay sở dĩ lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, binh đao tàn sát lẫn nhau là bởi nhân trộm cướp, giết hại mà ra. Con người chiếm đoạt tài nguyên để phục vụ lợi ích bản thân, chiếm không được thì tìm cách sát phạt, triệt tiêu nhau bằng nhiều hình thức, cuối cùng gây thù chuốc oán không có ngày thôi dứt.
08/12/2014(Xem: 4605)
Trên trang trực tuyến của CNN vào tháng Tư 2014, có một bản tin kèm theo hình ảnh, mang tựa đề “The images tell a story of anguish and forgiveness” (Những hình ảnh thuật lại một câu chuyện về lòng tha thứ và hỷ xả) do hai phóng viên của CNN tường thuật đã gây ra nhiều xúc động. Bộ ảnh này của một nhiếp ảnh gia của một hãng tin chụp được tại một cuộc xử tử bằng cách treo cổ vừa diễn ra lúc bình minh vào vài ngày trước tại thành phố Noor, tỉnh Maznadaran, miền Bắc nước Ba Tư (Iran). Hình thức trừng phạt này vẫn còn được chấp nhận và rất phổ thông ở đây.
23/11/2014(Xem: 8061)
Theo giáo lý nhà Phật, thì con người là do 5 uẫn kết hợp lại mà thành, đó chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Và nếu 5 uẫn này rời ra thì con người không còn nữa. Hay nói ngắn gọn hơn đó chính là Danh và Sắc. Là thân xác và tinh thần của con người chúng ta.
22/11/2014(Xem: 23488)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
19/11/2014(Xem: 5300)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 13581)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4472)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 4985)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567