Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chủng Tử Một số nhận định về tiến trình hình thành

25/02/201516:25(Xem: 5662)
Chủng Tử Một số nhận định về tiến trình hình thành

hoasen_1

Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.

Có thể xem ‘Vô Minh’ (mắt xích thứ nhất của vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên) là yếu tố căn bản trong sự hình thành tất cả các mắt xích còn lại. Từ ‘Vô Minh’ (thường được gọi là Bất Giác), chúng ta sẽ có động niệm. Từ niệm bị động, ‘Hành’ (mắt xích thứ hai của vòng chuỗi, ‘Hành’ là chùm niệm tưởng được kết nối liền lạc) được sinh khởi và phát triển tạo thành ‘Thức’ (mắt xích thứ ba của vòng chuỗi). ‘Thức’ khi bắt đầu một đời sống mới, phối hợp cùng tinh cha - huyết mẹ, sẽ tạo nên Danh Sắc (mắt xích thứ tư của vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên, Danh Sắc chính là con người mỗi chúng ta bao gồm cả thân và tâm: Danh là tâm bao gồm Thọ, Tưởng, Hành, và Thức; Sắc là thân) và phát triển ra ‘Lục Nhập’ (mắt xích thứ năm của vòng chuỗi) chính là sáu giác quan: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, và Ý.

Bắt đầu từ nơi năm căn của chúng ta (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; còn được gọi là ‘Tiền Ngũ Thức’ theo Duy Thức Học) được xem như là năm cánh cửa trổ ra từ ngôi nhà Chân Tâm để tiếp xúc và đón nhận trần cảnh, thế giới bên ngoài vốn được phân biệt ra năm thứ gọi là năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc ) nên khiến phát sinh niệm khởi. Thí dụ như nơi mắt thấy được cảnh (trời đất, núi sông, rừng cây, hoa lá, con người, con vật, hay các vật thể khác) với đủ loại hình dáng (vuông - tròn- trơn láng - sần sùi...), kích thước (rộng to - nhỏ hẹp), màu sắc (xanh – vàng - đỏ - trắng - đen..), nơi tai nghe được âm thanh với đủ loại âm sắc (trầm - bổng), âm lượng (lớn - nhỏ), nơi mũi ngửi được mùi với đủ loại thơm - hôi - nồng - nhạt, nơi lưỡi nếm được vị với đủ thứ ngọt – bùi – chua – cay - đắng -nồng - nhạt, nơi thân nhận biết được đủ loại cảm giác (nóng - lạnh - trơn – rít - đau - khoái..). Đây là giai đoạn ‘Xúc’, mắt xích thứ sáu của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đây cũng thường được gọi là giai đoạn ‘Sơ Niệm’ trong nhà Thiền. Ở giai đoạn này, chúng ta chỉ mới có trực giác, chưa có phát sinh Ý phân biệt, tức là chưa có các Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, và Thức Uẩn. Nơi đây, chúng ta đã có sự phân biệt nhưng sự phân biệt rất hồn nhiên, chưa có đủ độ đậm đặc để kết tụ thành ‘Uẩn’ (‘Uẩn’ là tích tụ, bồi đắp gọi tên theo bản chất của tiến trình hình thành; nó còn được gọi là ‘Ấm’ tức là ‘che đậy, làm cho bị khuất lấp , gọi tên theo dụng năng của nó là làm che khuất Chân Tâm). Đây có phải là điều ngài Huyền Giác đã đề cập đến khi ngài đến tham vấn Lục Tổ?

‘...Tổ nói: ‘Đại đức đã rõ được cái ý ‘Vô Sanh’.

Ngài Huyền Giác bạch: ‘Đã ‘Vô Sanh’ sao rằng có ý?’.

Tổ nói: ‘Nếu không ý, lấy chi phân biệt?’

Ngài Huyền Giác bạch: ‘Phân biệt cũng chẳng phải ý’.

Tổ khen: ‘Lành thay !...’ (Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên).

Tuy nhiên, tâm thức con người bình thường ít ai có thể dừng ở giai đoạn tiếp xúc thuần túy này. Qua tiếp xúc giữa căn và cảnh, tâm thức chúng ta ở nơi mỗi căn sẽ bị cảnh trần lôi cuốn, níu kéo để khiến khởi lên một loạt các tưởng niệm phân biệt dần dà bồi đắp và đúc kết thành nghiệp thức mang tính cách đặc sắc, chuyên biệt cho từng cá nhân. Đây là giai đoạn bắt đầu hình thành và phát triển ‘Sở Niệm’. Hai từ ngữ ‘Sơ’ (của ‘Sơ Niệm’) và ‘Sở’ (của ‘Sở Niệm’) chỉ khác nhau ở nơi có dấu hỏi hay không có dấu hỏi, đã đánh dấu sự vận hành và chuyển biến của tâm thức, một sự chuyển biến có tính cách tha hương, ‘vong thân’. Như nếu ta thích màu xanh, ghét màu đỏ; ta sẽ dễ có sự vui vẻ, hớn hở khi gặp được màu xanh; và ngược lại, ta sẽ trở nên dễ cau có, bực bội khi gặp phải màu đỏ. Sự vui buồn theo màu sắc đã khiến Chân Tâm thanh tịnh, trong sáng thường hằng bị chao động, nhuốm màu mờ tối để biến thành tình thức xốc nổi, sanh diệt ...Đây là giai đoạn xuất hiện, hình thành của ‘Thọ’ và ‘Ái’, mắt xích thứ bảy và thứ tám của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đây cũng là ‘Thọ Uẩn’, nhân tố quan trọng đầu tiên trong tiến trình hình thành Chủng Tử. ‘Thọ’ quan trọng nhất, có sức mạnh chi phối nhiều nhất, cơ bản nhất (bản năng tiềm tàng) nơi mỗi con người chúng ta chính là ‘Lạc Thọ’ phát sinh từ sự xúc tiếp giới tính. Lạc thọ này được xem là mệnh lệnh thầm kín, khắc nghiệt của tự nhiên để duy trì, phát triển nòi giống nơi cõi Dục Giới.

Sau khi được hình thành, Thọ Uẩn sẽ nhanh chóng phát triển nên Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, và Thức Uẩn tương ứng với giai đoạn ‘Thủ’ và giai đoạn ‘Hữu’, mắt xích thứ chín và mắt xích thứ mười của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’. Đến đây, các loại chủng tử được hình thành. Trở lại thí dụ trên người thích màu xanh và gặp được một đóa hoa xanh, một loạt tưởng niệm sẽ được khởi lên nơi tâm thức như sau: (1) Ô kìa! một đóa hoa đẹp! (Đây là ‘Thọ’ phát sinh) (2) Hoa tên gì? Hoa này của ai, ở đâu mà có? (Tưởng Uẩn, Hành Uẩn, Thức Uẩn hiện khởi) (3) Hoa đẹp quá, nhìn ngắm hoa thích quá! Ta yêu hoa quá!(Đây là ‘Ái’ phát sinh) (4) Cần phải chiếm giữ nó (Đây là ‘Thủ’ phát sinh) (5) Tận hưởng và sống cùng với nó (Đây là giai đoạn ‘Hữu’ phát sinh) ... Vậy có thể thấy từ sự xúc chạm của hai pháp vô ngôn là đóa hoa và ánh (mắt) nhìn đã khiến tự động trỗi lên vô vàn ngữ ngôn thầm lặng nơi tâm thức chúng ta; ‘Sơ Niệm’ là pháp vô sự nhưng chỉ một niệm bất giác đã trở nên ‘Sở Niệm’ với biết bao đa đoan của cuộc vay trả - trả vay. Chủng tử được hình thành sẽ được Mạt Na Thức (còn được gọi là Truyền Tống Thức, thức thứ bảy của Bát Thức Tâm Vương) đem cất vào kho tàng chủng tử là A Lại Da Thức (còn được gọi là Tàng Thức, thức thứ tám của Bát Thức Tâm Vương). Sau đó, khi có đủ duyên, chủng tử sẽ phát khởi sự sanh và diệt mới được gọi là ‘Sanh’ và ‘Lão Tử’ (mắt xích thứ mười một và mười hai của vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên).

Như thế, chủng tử nơi tâm thức chúng ta chính là các hạt mầm, hạt mầm năng lượng. Loại năng lượng ở đây chính là năng luợng tâm linh, năng lượng của Thấy - Nghe - Hay - Biết (Kiến - Văn - Giác -Tri) được huân tập, kết tụ từ nhiều giai đoạn của vòng ‘Mười Hai Nhân Duyên’, từ giai đoạn ‘Xúc’ đến các giai đoạn ‘Thọ’, ‘Ái’, ‘Thủ’, và ‘Hữu’. Năng lực cơ bản, nòng cốt cho tiến trình huân tập, kết tụ năng lượng tâm linh này chính là ‘chấp thủ’. Do nơi có lực ‘chấp thủ’, tâm thức chúng ta mới có chỗ bám víu để làm nền tảng hình thành, phát triển, và chuyển biến năng lượng tâm linh từ giai đoạn ‘Xúc’ đến các giai đoạn sau ‘Thọ’,’ Ái’, ‘Thủ’, và Hữu’ của vòng Mười Hai Nhân Duyên để kết thành các loại chủng tử.

Sau khi xuất hiện ‘Ái’, ‘Thủ’, và ‘Hữu’, phiền não với nhiều dạng loại - mức độ khác nhau sẽ có cơ hội xuất hiện thêm để bảo hộ và giúp tăng trưởng các chủng tử. Trở lại thí dụ về đóa hoa đã nêu trên, một khi ta đã có tâm thức bị dắt dẫn đến các giai đoạn ‘Thủ’ và ‘Hữu’, tâm sở phiền não ‘Tham’ đã được hình thành. ‘Tham’ được Phật Đạo mệnh danh là một trong ba độc (Tham, Sân, Si), là một trong sáu Căn Bản Phiền Não (Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác Kiến) và còn là một trong năm thứ Triền Cái (Tham, Sân, Thụy Miên, Trạo Hối, Nghi Hoặc) vốn là các tâm sở làm che lấp, mờ đục, khuấy động, chao đảo Chân Tâm. Khi một phiền não đã được thành lập, nó sẽ là chỗ nương, là sức trớn cho các loại phiền não khác dễ dàng được thành lập tiếp theo. Lúc đó, ngoài phiền não vừa mới vừa được hình thành, phiền não có trước được phiền não có sau bồi đắp, điểm tô thêm khiến chủng tử phiền não ngày càng có nhiều hơn và ngày được kiên cố thêm, nặng nề thêm. Điều này khiến bảo đảm thêm cho sự khai hoa, trổ quả về sau của các chủng tử. Thí dụ khi ta đã cho đóa hoa xanh là đẹp và yêu quí rồi muốn giữ gìn nó (Tham), nếu có người khác có ý kiến khác và chê nó là không đẹp rồi muốn phá hủy nó, ta sẽ dễ dàng nổi giận (Sân) để khơi mào cuộc chiến đấu bảo vệ đóa hoa với người ấy. Nếu có một người khác, cùng một ý kiến với ta (cho là đóa hoa đẹp) và cũng muốn chiếm hữu nó, ta cũng sẽ dễ dàng nổi sân để khơi mào cuộc chiến đấu tranh dành đóa hoa với người này. Vậy một khi ‘Tham’ đã có, ‘Sân’ sẽ có theo như theo một qui trình dường như tự nhiên, tự động, và có sẵn từ muôn kiếp nào, nhưng thực ra chúng đã được dắt dẫn bởi các chủng tử có sẵn, tiềm ẩn sẵn nơi A Lại Da thức ở mỗi chúng ta. Tập hợp các chủng tử được gọi vắn tắt là ‘Nghiệp’, sự vận hành và tác động của các chủng tử được gọi là ‘Nghiệp Lực’.

Như thế tác giả tạo ra các chủng tử chính là (tâm thức) chúng ta ở từng ngày, từng giờ, từng phút giây, từng sát na của đời sống. Mỗi chúng ta đã tạo ra chủng tử đặc sắc, chuyên biệt cho chính mình và đem cất chứa chúng vào nơi kho tàng A Lại Da thức. Từ nơi kho tàng nghiệp thức mênh mang không có ngằn mé này, chủng tử quyết định cuộc đời (thụ động) của mỗi chúng ta. Phật Đạo xác quyết chính chủng tử quyết định, chứ không do một thế lực thần linh nào quyết định ban phát hoặc trừng phạt chúng ta. Kinh Pháp Cú, phẩm Song Yếu nêu rõ:

‘Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm ô nhiễm tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe.‘

‘Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu đem tâm thanh tịnh, tạo nghiệp nói năng hoặc hành động, sự vui vẻ theo nghiệp kéo đến, như bóng theo hình.’

Đến đây, qua chủng tử, ta có thể thấy rõ thêm được tính chất rất khoa học của nguyên lý luân hồi: ‘Nhẹ nổi, Nặng chìm’. Các tâm sở ác được xem là các chủng tử nặng. Duy Thức Học phân biệt có 26 món tâm sở ác bao gồm 6 Căn Bản Phiền Não đã nêu ở trên, và 20 món Tùy Phiền Não (20 món Tùy Phiền Não lại được chia ra ba loại là Tiểu Tùy có 10 món: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan, Cuồng, Siễm, Hại, và Kiêu; Trung Tùy có 2 món là Vô Tàm, và Vô Quí; Đại Tùy có 8 món là Trạo Cữ, Hôn Trầm, Bất Tín, Giải Đãi, Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, và Bất Chánh Tri). Các tâm sở nặng này có khuynh hướng bị chìm xuống nên nơi đi về của chúng khó có thể là nơi trên các tầng trời cao mà dĩ nhiên sẽ là những cảnh giới thấp của 3 đường ác (Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh). Trái lại, các tâm sở thiện được xem là các chủng tử nhẹ. Theo Duy Thức Học có 11 món tâm sở thiện là: Tín, Tàm, Quí, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Tinh Tấn, Khinh An, Bất Phóng Dật, Hành Xả, và Bất Hại. Các tâm sở nhẹ có khuynh hướng di chuyển lên cao nên nơi đi về của chúng thường là những cảnh giới nhẹ nhàng hơn, cao cả hơn, đẹp đẽ hơn của ba đường thiện (Trời, Người, và A Tu La). Chính vì thế, Dục Giới với biết bao dạng loại tình và tưởng đan bện vào nhau dày đặc, cõi mà chúng ta đang có mặt, là cõi ‘nặng’ nhất so với hai cõi còn lại (Sắc Giới, Vô Sắc Giới). Nếu áp dụng nguyên lý này vào đời sống thường nhật, ta cũng có thể nhận biết được sự khác biệt giữa nơi đi và nơi đến (trong kiếp sống này và các kiếp sống vị lai) của một người luôn giữ tâm ý điều hòa, vui vẻ và một người luôn bất mãn, bực bội...

Chủng Tử chính là hạt mầm đích thực của đời sống. Đây là loại hạt mầm không có hình tướng vì được cấu tạo từ nguồn năng lượng tâm linh do pha trộn giữa Chân Tâm (cái Thấy – Nghe - Hiểu - Biết tinh khôi) và những vọng tình, vọng thức (cái Thấy – Nghe - Hiểu -Biết đã bị nhiễm bởi sáu trần, hình thành từ sự tiếp xúc giữa các căn và các trần cảnh). Vi là dạng năng lượng nên Chủng Tử không bị hủy hoại mà chỉ có thể được chuyển hóa qua các phương pháp tu tập hữu hiệu. Tu tập Phật Đạo chính là tiến trình trong đó mỗi chàng Cùng Tử chúng ta nhận chân được những nguồn năng lực vô hình nào đó đã đùn đẩy, xô kéo chàng vào con đường phiêu linh, lang thang rời xa cội nguồn, quê hương, bản quán. Để từ đó chàng có thể thấy ra con đường quy hồi cố quận, quay bước trở về tìm lại người cha Trưởng Giả, nhận ra Trưởng Giả, tập làm Trưởng Giả, trở thành Trưởng Giả, và ...chính là Trưởng Giả! 

Quảng Minh LKH


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2014(Xem: 5294)
Nhiều người , do chỉ nhìn sơ lược bên ngoài, nói đạo Phật là “sắc sắc không không” một cách mơ hồ. Điều này dễ dẫn đến nhìn đạo Phật như là một lối sống bi quan, yếm thế. Từ khi có thêm lối suy nghĩ của văn hóa Tây phương vào đầu thế kỉ 20, chữ Không và Giải thoát càng thêm bị hiểu lầm.
11/12/2014(Xem: 4099)
Khi bậc Thế Tôn Đại Giác nói rằng: "Vì một đại sự nhân duyên của chúng sanh ở thế gian Ta bà mà Như Lai xuất hiện ra đời." Vậy từ khi Chánh Giác Thế Tôn xuất hiện đến bây giờ chúng ta những người con của đấng Đạo Sư nhận được những sự lợi lạc gì trong đại sự nhân duyên đó. Lời của đấng Chánh Biến Tri là chân thật ngữ.
11/12/2014(Xem: 4319)
Thế giới ngày nay sở dĩ lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, binh đao tàn sát lẫn nhau là bởi nhân trộm cướp, giết hại mà ra. Con người chiếm đoạt tài nguyên để phục vụ lợi ích bản thân, chiếm không được thì tìm cách sát phạt, triệt tiêu nhau bằng nhiều hình thức, cuối cùng gây thù chuốc oán không có ngày thôi dứt.
08/12/2014(Xem: 4561)
Trên trang trực tuyến của CNN vào tháng Tư 2014, có một bản tin kèm theo hình ảnh, mang tựa đề “The images tell a story of anguish and forgiveness” (Những hình ảnh thuật lại một câu chuyện về lòng tha thứ và hỷ xả) do hai phóng viên của CNN tường thuật đã gây ra nhiều xúc động. Bộ ảnh này của một nhiếp ảnh gia của một hãng tin chụp được tại một cuộc xử tử bằng cách treo cổ vừa diễn ra lúc bình minh vào vài ngày trước tại thành phố Noor, tỉnh Maznadaran, miền Bắc nước Ba Tư (Iran). Hình thức trừng phạt này vẫn còn được chấp nhận và rất phổ thông ở đây.
23/11/2014(Xem: 8007)
Theo giáo lý nhà Phật, thì con người là do 5 uẫn kết hợp lại mà thành, đó chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Và nếu 5 uẫn này rời ra thì con người không còn nữa. Hay nói ngắn gọn hơn đó chính là Danh và Sắc. Là thân xác và tinh thần của con người chúng ta.
22/11/2014(Xem: 23108)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
19/11/2014(Xem: 5262)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 13460)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4433)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 4921)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567