Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu hành để được giải thoát, không khó

26/09/201507:43(Xem: 5661)
Tu hành để được giải thoát, không khó

Phat Thich Ca-2a
TU HÀNH ĐỂ ĐƯỢC GIẢI THOÁT, KHÔNG KHÓ!

 

Thật vậy, ngay sau khi thành đạo, Đức PHẬT đã tuyên bố “LỜI GIẢI CHO BÀI TOÁN KHỔ” của thế gian một cách rất ngắn gọn, giản dị, và rõ ràng; Chỉ như sự chửa bệnh của một ông Bác sĩ:

 

"Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử... Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt 4 SỰ THẬT:

 

1)     SỰ THẬT về KHỔ,

2)     SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ

3)     SỰ THẬT về NIẾT BÀN (lúc khổ tận diệt)

4)     SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN

 

lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn khổ đau vì sinh tử nữa."

 

Tuy nhiên lời dạy ngắn gọn đó của PHẬT mấy ai đã ghi nhớ đầy đủ.  Ngay SỰ THẬT đầu tiên, SỰ THẬT về KHỔ, có được bao nhiêu người đã ý thức thấu đáo?   Chỉ vì không ý thức thấu đáo SỰ THẬT về KHỔ mà bao nhiêu người đã và đang tiêu phí hết cả cuộc đời, “SỐNG để CHỜ CHẾT” rồi đi vào cỏi âm u.

 

Thời gian đi qua rất nhanh, thấm thoắt mà đã 40 năm rồi từ ngày chúng ta bỏ nước ra đi, năm 1975.  Từ đây cho đến ngày chết, dĩ nhiên còn nhanh chóng hơn thế nữa.  Thế nhưng CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT chúng ta đã thấy rõ hay chưa?  Nếu chưa thì đến ngày chết làm sao tránh khỏi đi vào cỏi MỊT MÙ?   Lần ra đi này còn MỊT MÙ hơn cả ngày vượt biên bỏ nước ra đi.  Thế nhưng đã có ai biết sửa soạn để không bị đi vào cỏi MỊT MÙ chưa?

 

Đừng tưởng chết đi có thể sinh được làm người trở lại một cách dễ dàng.  Nếu sinh được làm người trở lại mà dễ thì hẳn chúng ta đã hiểu đạo, CHỨNG ĐẠO, từ lâu rồi.  Tại sao qua vô vàn kiếp cho đến giờ này, chúng ta vẫn “mò mẫm” trên con đường tu hành, vẫn chưa thấy đâu bến bờ giải thoát?  -- Bởi vì sau khi chết không dễ gì sinh lại được làm người để tiếp tục học đạo.  Trong kinh tạng PHẬT đã nói rõ: “Như lai thấy người chết đi xuống, nhiều như lông con bò, mà sinh lại làm người, hoặc đi lên, thì ít như 2 sừng bò”.

 

Đó là chưa nói đến trường hợp, sau khi chết, vì quá khát khao được sống trở lại, vô vàn chúng sanh trong lúc buồn khổ, thiếu tĩnh thức, đã đọa sinh vào các loài thú vật.  Trong trường hợp này thời gian chờ được tiến hóa để lên làm người trở lại, còn lâu xa hơn một con rùa ở dưới đáy biển, 100 năm nổi lên một lần, và đụng được một tấm váng trôi bồng bềnh trên mặt đại dương (xem Tương Ưng bộ kinh).  Đó cũng là một  SỰ THẬT về KHỔ mà vì chúng ta không hề hay biết, nên đã bị trầm luân từ vô vàn kiếp đến nay.

 

Trong Tương Ưng bộ kinh, có lần Đức PHẬT hỏi chúng tăng: “Này chư tỳ kheo, đất trên đầu móng tay của ta và đất của cả quả địa cầu, bên nào nhiều hơn, bên nào ít hơn?”  -- Bạch đức Thế Tôn, không thể so sánh được, một bên quá ít, một bên quá nhiều.  “Này chư tỳ kheo, sự khổ còn lại của một bậc THÁNH NHẬP LƯU cũng ít như đất trên đầu móng tay của ta.  Trong khi sự khổ của những ai chưa đắc được THÁNH QUẢ NHẬP LƯU sẽ còn mênh mang như đất của quả địa cầu”.

 

Lý do như vậy là vì bậc THÁNH NHẬP LƯU (TU ĐÀ HOÀN) chỉ còn luân hồi tối đa 7 kiếp nữa thôi rồi sẽ được giải thoát hoàn toàn.   Và ngài chỉ sinh lại làm người hoặc vào các cỏi trời để tiếp tục tu hành, chứ không còn bị đọa lạc vào các khổ cảnh.   Như vậy có nghĩa rằng, muốn chấm dứt sự trầm luân trong các khổ cảnh và đảm bảo sẽ được giải thoát hoàn toàn như các vị A LA HÁN, thì sự tu hành của chúng ta phải đạt cho bằng được THÁNH QUẢ NHẬP LƯU ngay trong kiếp này.   Đó là THÁNH QUẢ mà một người cư sĩ có thể đạt được, nếu học đầy đủ CHÁNH PHÁP và TINH TẤN TU HÀNH để có thể LIỄU TRI tất cả 4 SỰ THẬT VI DIỆU ở trên.

 

Liễu tri 4 SỰ THẬT VI DIỆU cũng có nghĩa là liễu tri  BÁT CHÁNH ĐẠO, TỨ NIỆM XỨ, 12 NHÂN DUYÊN, LÝ DUYÊN KHỞI, 37 PHẨM TRỢ ĐẠO, cùng sự hiểu biết về  các TIẾN TRÌNH của THIỀN ĐỊNH và sự TU CHỨNG.  Vì các pháp đó đều chỉ là những sự khai triển từ 4 SỰ THẬT VI DIỆU mà ra.   Khi SỰ THẬT về NIẾT BÀN đã biết rõ ràng, khi CON ĐƯỜNG đi đến NIẾT BÀN cũng đã được thông suốt rõ ràng, thì sự tu hành đến nơi đến chốn sẽ tự nhiên xảy ra như PHẬT đã cho ví dụ ở trong Tăng Chi bộ kinh:

“Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu không khởi lên ước muốn: "Mong rằng tâm ta được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ"; tuy vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.  Vì cớ sao? Phải nói rằng vì vị ấy có tu tập. Có tu tập cái gì? Có tu tập Bốn niệm xứ, có tu tập Bốn chánh cần, có tu tập Bốn như ý túc, có tu tập Năm căn, có tu tập Năm lực, có tu tập Bảy giác chi, có tu tập Thánh đạo tám ngành.

Ví như, này các Tỷ-kheo, có tám, mười hay mười hai trứng gà. Các trứng ấy được con gà mái ấp nằm đúng cách, ấp nóng một cách đúng đắn, ấp dưỡng một cách đúng đắn. Dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ý muốn: "Mong rằng những con gà con của ta, với chân móng và đỉnh đầu, hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn!", tuy vậy, các con gà con ấy có thể với chân, móng, đỉnh đầu hay với miệng và mỏ, sau khi làm bể vỏ trứng, được sanh ra một cách an toàn.

Nếu quí đạo hữu đã thật sự thấy MỌI HẠNH PHÚC THẾ GIAN ĐỀU HỨA HẸN ĐAU KHỔ để không còn bám víu và phí bỏ mọi thì giờ cho chúng nữa, thì tôi sẽ tận tình chia xẻ với quí đạo hữu đầy đủ PHÁP HỌC cũng như PHÁP HÀNH để quí vị có thể tìm thấy HẠNH PHÚC CHÂN THẬT.   Qúi đạo hữu phải có đầy đủ CHÁNH TRI KIẾN về giáo pháp của PHẬT trước khi đi vào THIỀN ĐỊNH và THIỀN QUÁN.   Bởi không thể có một ông bác sĩ ra trường mà chưa học đầy đủ lý thuyết về y khoa.  Cũng không thể có một bác nông phu dầu tâm hồn yên tịnh đến cở nào, khi chăm chú nhìn trái táo rơi mà phát hiện ra được định luật về trọng lực (gravity) như  nhà vật lý NEWTON.   Sự tu hành cần có đầy đủ PHÁP HỌC (CHÁNH KIẾN) để làm vốn liếng cho CHÁNH TƯ DUY trước khi đi đến GIÁC NGỘ.

Nhiều Phật tử đã tưởng rằng sự tu hành chỉ cần chuyên tâm THIỀN ĐỊNH rồi sẽ phát sinh TRÍ TUỆ.  Do tưởng vậy họ nôn nóng đi tìm các thiền sư nổi tiếng để “hạ thủ công phu” mong được tức khắc giải thoát.   Họ không biết rằng nếu chưa học đầy đủ CHÁNH KIẾN của PHẬT để biết thế nào là CHÁNH ĐỊNH trước khi thực hành THIỀN, thì sự tu ĐỊNH sẽ rất dễ phát sinh TÀ KIẾN.  Do trong lúc thiền định THỌ và TƯỞNG biến hiện ra những ĐỊNH TƯỚNG ngoài tầm hiểu biết của họ để gây nên những sự hiểu lầm.  Nên nhớ rằng, dầu cho quí đạo hữu đã tuyên bố đắc ĐỊNH đắc TUỆ cở nào. nhưng nếu vẫn chưa thấy rõ được 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ, thì quí đạo hữu vẫn còn ở trong VÔ MINH, chưa có khả năng chấm dứt được sự KHỔ.

Đức PHẬT đã xác định như vậy ở trong Tương Ưng bộ kinh:  “Này Chư Tỷ-kheo, chính là không rõ biết KHỔ, không rõ biết KHỔ TẬP (nguyên nhân của khổ), không rõ biết KHỔ DIỆT (niết bàn), không rõ biết CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN KHỔ DIỆT (bát chánh đạo), đấy gọi là VÔ MINH. Cho đến như vậy là đi đến vô minh.”.    Phần cuối cùng của bài kinh TỨ NIỆM XỨ, trong phần QUÁN PHÁP, Đức PHẬT cũng đã chỉ  dạy cách kiểm chứng sự thành công của sự tu hành như sau:  Vượt qua 5 TRIỀN CÁI, thấy rõ NGỦ UẨN VÔ NGÃ, đạt được LỤC CĂN THANH TỊNH, đi hết tiến trình của 7 GIÁC CHI, và cuối cùng thấy rõ đầy đủ 4 SỰ THẬT của  TỨ THÁNH ĐẾ như đã nói ở trên.

 

Đó là sơ lược kinh nghiệm tu học của tôi theo đúng CHÁNH PHÁP của PHẬT.   Tôi không có kinh nghiệm thiền chứng của bất cứ một vị thiền sư danh tiếng nào để chia xẻ cho quí đạo hữu.  Tôi chỉ có thể giúp quí đạo hữu thấy rõ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT của Đức PHẬT đã ghi trong KINH TẠNG.  Để, nếu có quyết tâm, quí đạo hữu có thể đắc được THÁNH QUẢ TU ĐÀ HOÀN ngay trong kiếp này.   Nhưng dầu không thành đạt đi nữa thì quí đạo hữu, từ nay cho đến về sau, cũng xứng đáng được gọi là Phật tử hơn bao nhiêu người khác, vì đã nắm vững các giáo pháp chính của PHẬT.  Tôi sẽ giúp quí đạo hữu hiểu thật rõ các giáo pháp sau đây:

 

  1. LÝ DUYÊN KHỞI:  Đây là chìa khóa để hiểu rõ những khúc mắc trong giáo lý đạo Phật, là trí tuệ để các vị DUYÊN GIÁC (ĐỘC GIÁC) PHẬT thành PHẬT trong thời kỳ không có một vị TOÀN GIÁC PHẬT ra đời.   Một giáo lý mà Đức Thích Ca đã ca ngợi như sau: “Này Ananda, giáo pháp Duyên khởi này thâm thúy, thật sự thâm thúy. Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja (ba-ba-la) không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sanh tử.”

 

  1. 4 SỰ THẬT VI DIỆU (Tứ Thánh Đế): Là trọn vẹn lời giải cho bài toán khổ của thế gian mà Chư Phật đều tuyên bố sau khi thành đạo.  Nếu quí đạo hữu không muốn đường tu đi về nơi vô định thì dứt khoát quí đạo hữu phải hiểu rõ NIẾT BÀN là gì?  Và con đường đến đó phải thấy rõ ràng.

 

Có một tội lỗi mà nhiều thầy tổ Trung Hoa đã vi phạm, do họ đã hiểu lầm lời Kinh BÁT NHÃ với trí óc chưa chứng đắc của họ.  Họ đã cho rằng TỨ ĐẾ “là pháp thấp thỏi của bọn hạ căn tiểu thừa”.  Trong khi đó thì chính Đức Phật lại tuyên bố đó là pháp cao nhất mà chỉ các bậc PHẬT TOÀN GIÁC mới có thể thấu triệt hoàn toàn:

 

"Này hỡi các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim).

 

Đến khi, này hỡi các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”  (Kinh Chuyển Pháp Luân) 

 

  1. BÁT CHÁNH ĐẠO:  Là trọn vẹn con đường đi đến NIẾT BÀN, tận diệt khổ đau.  Áp dụng vào cuộc sống, vào hệ thống giáo dục thế gian, là con đường để phát triển TRÍ TUỆ, ĐẠO ĐỨC, và HẠNH PHÚC chân thật cho con người và xã hội.  Qúi đạo hữu phải hiểu và áp dụng trọn vẹn tất cả BÁT CHÁNH ĐẠO mới có thể mong đạt đến các Thánh Quả.  Đức PHẬT đã khẳng định rằng:

 

“Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn (TU ĐÀ HOÀN), ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn (TU ĐÀ HÀM), cũng không có đệ tam Sa-môn (A NA HÀM), cũng không có đệ tứ Sa-môn (A LA HÁN). Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn.” (Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ 16)

 

  1. 4.      TỨ NIỆM XỨ, THIỀN MINH SÁT:  Đây là con đường TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH mà tất cả các bậc giác ngộ đều phải đi qua để đạt đến NIẾT BÀN.  Bởi không thể có một bậc giác ngộ mà chưa hiểu chính mình.  Cũng bởi thế mà trong kinh TỨ NIỆM XỨ Đức PHẬT đã xác định như sau: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.”

 

TỨ NIỆM XỨ là một pháp THIỀN rất khoa học, chỉ phát triển TUỆ PHÂN TÍCH mà không phát triển  tâm THAM ÁI duy trì NGÃ CHẤP như các phương pháp thiền khác.   Với TỨ NIỆM XỨ quí đạo hữu khỏi cần khổ cực uốn nắn thân tâm theo cách nào, của bất cứ một vị thiền sư, hay của tông phái  nào cả.

 

Quí đạo hữu chỉ cần phát triển sự TÒ MÒ muốn TÌM HIỂU CHÍNH MÌNH.  Rồi quí đạo hữu sẽ say sưa tìm hiểu về con người của mình như một KHOA HỌC GIA say sưa nghiên cứu, quên ăn quên ngủ.  Qúi đạo hữu có thể liên tục THIỀN ĐỊNH, THIỀN QUÁN một cách thích thú, không biết mõi mệt cho đến khi  khám phá được SỰ THẬT VÔ NGÃ thì sẽ biết NIẾT BÀN là như thế nào?

 

Không ai có thể trực tiếp thấy rõ mình bằng chính mình.  Chỉ cần phát triển sự thấy trực tiếp như vậy, quí đạo hữu sẽ thấy đầy đủ mọi góc cạnh của BÃN NGÃ, đầy đủ mọi tính chất tốt xấu của nó, cùng với những nguyên nhân từ đâu những tốt xấu và BÃN NGÃ sinh ra.  Từ đó quí đạo hữu sẽ khám phá ra đầy đủ tất cả 4 SỰ THẬT của TỨ THÁNH ĐẾ từ ngay trong cái thân tứ đại này.

 

  1. NGHIỆP và 12 NHÂN DUYÊN:  Đây là lý thuyết giảng rõ những nguyên nhân tạo nên BÃN NGÃ, tạo nên sự trói buộc của NGHIỆP THỨC, tao nên vòng sinh tử luân hồi.  Đây là những CHÁNH KIẾN quí báu được trao truyền lại từ một bậc đã giác ngộ hoàn toàn, đã chứng đắc 3 MINH, để có cái nhìn xuyên suốt, vượt THỜI GIAN, vượt KHÔNG GIAN, để hiểu trọn tất cả những nguyên nhân  và sự vận hành của ĐAU KHỔ.

 

  1. TIẾN TRÌNH GIÁC NGỘ và ĐẮC CHỨNG:   Như một người tiến bước trên đường xa, người đó cần biết rõ những mốc giới của từng chặng đường để kiểm chứng sự đi đúng đường và tiến triển của cuộc hành trình.  Sự tu học cũng như vậy, quí đạo hữu cần THIỀN QUÁN theo đúng 7 tiến trình của sự giác ngộ, 7 GIÁC CHI, cùng phải hiểu rõ những điều kiện để đạt đến những Thánh Quả.   Vì sự thành đạt trên đường tu hành cũng không ra khỏi LUẬT NHÂN QUẢ.   Nếu không hiểu được NHÂN thì sẽ không tạo được QUẢ.  ĐẠO TRÍ TUỆ của PHẬT Không có kiểu đắc đạo theo cách “chờ sung rụng”.   Đừng bỏ “NGÓN TAY” chỉ đúng hướng của PHẬT mà đi theo những “NGÓN TAY NGO NGOE” của những kẻ chủ trương PHI PHÁP.  Phải biết rõ SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG đi đến NIÊT BÀN, không thể mơ hồ.

 

  1. CÁC PHẨM TRỢ ĐẠO:  Đây chỉ là những lời dặn dò sau cùng của tôi, để nhắc nhở những người tu học cần mang theo đầy đủ những hành trang gì, những phụ tùng gì, để khi đi trên CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT sẽ không gặp trở ngại và sẽ đi đến nơi đến chốn một cách suông sẻ.

Mọi thắc mắc xin liên lạc:

 

NHƯ KHÔNG

gsnhukhong@gmail.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2014(Xem: 5032)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5041)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 5695)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4581)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4458)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 14422)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
16/09/2014(Xem: 18030)
Trên ngực Phật, hay trên những trang kinh của Phật, ta thường thấy có chữ VẠN. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy có hai lối viết khác hẵn: Một là, “chữ vạn” hướng xoay theo chiều kim đồng hồ (lối viết A); hai là”chữ vạn” xoay ngươc chiều kim đồng hồ (lối viết B)
15/08/2014(Xem: 11968)
Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.
06/08/2014(Xem: 4643)
Thiền sư Động Sơn Lương Giới Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông Tào Động ở Trung Hoa. Khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài ta mới thấy ý chí người xưa. Lá thư thứ nhất: “Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở che. Song, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa sanh diệt. Ân bú sú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, dù đem của cải thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không được bền lâu.
18/07/2014(Xem: 13330)
Có một Phật tử gửi thư cho tôi và đặt câu hỏi về vấn đề quy y. Tôi xin ghi lại và trả lời, mong rằng có thể giải tỏa khúc mắc cho những người cùng cảnh ngộ. Nguyên văn lá thư: Kính bạch thầy, Đây là câu chuyên có thật 100% nơi con ở, nhưng con xin phép dấu tên những nhân vật trong câu chuyện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567