Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sắc Tức Thị Không

25/02/201516:27(Xem: 14526)
Sắc Tức Thị Không

Hoa Sen Quang Duc

 

Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”

Câu văn cô đọng này đã đúc kết mối liên hệ và diễn bày ra bản thể của thân và tâm của mỗi chúng ta (ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức) với Không Tánh. Sắc là vật chất, là “thân”. Thọ (cảm giác), Tưởng (niệm tưởng phát sinh khi căn tiếp xúc trần cảnh), Hành (chùm niệm tưởng kết nối liên tục), Thức (suy nghĩ phân biệt, chấp trước... cấu thành bản ngã, cái “tôi”) là “tâm”. Nếu được nhìn theo toán học, câu văn đã tỏ rõ mối liên hệ giữa ngũ uẩn và Không Tánh qua hai phương trình. Phương trình thứ nhất là “bất dị”, phương trình thứ hai là “tức thị”. Mỗi ngũ uẩn đều nằm trong hai phương trình trên. Có nghĩa là nếu được đọc đầy đủ, câu văn thứ nhì trong bài Tâm Kinh sẽ là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; Thọ bất dị Không, Không bất dị Thọ; Thọ tức thị Không, Không tức thị Thọ; Tưởng bất dị Không, Không bất dị Tưởng; Tưởng tức thị Không, Không tức thị Tưởng; Hành bất dị Không, Không bất dị Hành; Hành tức thị Không, Không tức thị Hành; Thức bất dị Không, Không bất dị Thức; Thức tức thị Không, Không tức thị Thức”. Theo câu thứ nhất trong bài Tâm Kinh: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách”, nếu chúng ta có thể quán thấy được, tu được, và sống trọn vẹn được với mối liên hệ và bản thể thân tâm như đã nêu trên, tức là chúng ta đã “hành thâm Bát Nhã Ba La Mật” để kết quả là chúng ta sẽ vượt qua được tất cả khổ ách. Đến đây, ta có thể rút ra một qui luật cho nhận thức và tiến tu: nếu muốn thoát khổ, cần phải hành thâm (Bát Nhã Ba La Mật); và nếu muốn hành thâm, cần phải chiếu kiến cho thấu đáo được lẽ Sắc Không và hằng sống với nó.

“Sắc Tức Thị Không” cũng là bốn chữ thường được nhắc nói đến trong thơ văn, và cả trong đời sống thường ngày của Việt Nam. Trong các bộ môn Khoa Học cũng đã có nhiều minh chứng cụ thể. Công thức Albert Einstein, E = mc2 là một ví dụ. “E” là energy, là năng lượng; “m” là mass (of material), là khối vật chất, “c” là vận tốc ánh sáng (300.000 km/giây). Công thức này cho thấy vật chất sẽ không khác (bất dị), sẽ tức là (tức thị) năng lượng khi vật chất ở trạng thái di chuyển nhanh với tốc độ 90,000,000,000 km mỗi giây đồng hồ vì khi ấy vật chất sẽ là lửa, là năng lượng, là trở nên không còn có hình tướng, là “Không Tướng”. Ngay nơi đây, ở giây phút này, mỗi chúng ta dù đang đi, đang đứng, đang nằm, hay đang ngồi, chúng ta cũng đang di chuyển nhưng với vận tốc không kinh khiếp như vận tốc ở công thức Albert Einstein. Thiết nghĩ chúng ta nên cảm tạ quả địa cầu xoay vòng xung quanh mặt trời và giải thiên hà (chứa quả địa cầu) di chuyển trong vũ trụ một cách khoan thai, từ tốn để chúng ta không bị hóa khí, bốc hơi. Các nghiên cứu, khảo cứu và khám phá về cấu tạo nguyên tử cũng góp phần minh chứng và công nhận về chân lý của câu kinh Phật: nguyên tử, thành phần cơ bản của các loại vật chất, có cấu tạo gồm ba loại hạt chính: đó là những hạt mang điện tích âm (electron) xoay vần chung quanh một nhân gồm chứa những hạt mang điện tích dương (proton) và những hạt mang điện tích trung tính (neutron). Các hạt mang điện này nếu được quan sát với trang thiết bị thích hợp, sẽ được thấy chỉ là những đám mây năng lực điện từ. Như vậy đơn vị cấu tạo vật chất, tùy theo cách nhìn, góc độ quan sát, phương tiện nghiên cứu có thể hiện bày ra với nhiều dạng tướng không giống nhau: đó có thể là vật, là người, nhưng cũng có thể là những tế bào, và cũng có thể là những nguyên tử, những hạt điện tử hoặc những đám mây năng lượng...

Trong “Thần Hội Ngữ Lục”, ý nghĩa hai chữ Sắc và Không đã được ngài Thần Hội lý giải như sau: ''Tâm ấy khởi tức là sắc, sắc không thể được tức là không. Lại nói: Pháp tánh diệu hữu nên tức sắc, sắc diệu hữu nên tức không. Vì thế kinh nói: Sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Lại nói: Thấy tức sắc, thấy không thể thấy tức không. Do đó kinh nói: Sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức cũng lại như thế''. Có thể hiểu đoạn văn này như sau: (1) Sắc và không ở đây có cùng cội nguồn là tâm (2) Không là thể, sắc là dụng của cội nguồn ấy nên không và sắc tương ưng nhau để có mối liên hệ theo hai phương trình “bất dị” và “như thị” như đã nêu trên.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói về đơn vị cấu tạo của địa đại (chất liệu thể rắn đặc): “Anan! Ông hãy xét cái tính của địa đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi trần, cho đến lân-hư-trần, do chẻ chất cực vi, là sắc tướng nhỏ tột, ra bảy phần mà thành. Nếu chẻ lân-hư-trần nữa, thì thật là tướng hư không. Anan, nếu cái lân-hư-trần đó, chẻ ra thành được hư không, thì biết hư không cũng sinh ra được sắc tướng”. Kinh cũng đề cập về thể tánh các pháp sắc-không qua lại lẫn nhau trong Như Lai tàng: “Tính sắc là chơn không, tính không là chơn sắc, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng hay biết, theo nghiệp mà phát hiện...”.

Ý niệm “Sắc tức thị Không” như thế mang rất nhiều ý nghĩa và ích lợi. Riêng trong đời sống bình thường hằng ngày, “Sắc tức thị Không” giúp chúng ta bớt đi phiền não, tham đắm, chấp trước vào nơi vật chất thế gian nên khiến đời sống được thanh tĩnh hơn, an lạc hơn. “Sắc tức thị Không” cũng là liều thuốc bổ dưỡng khiến cho tâm trí ta được cởi mở rộng rãi hơn (chẳng là duy vật, cũng chẳng là duy tâm; chỉ là “sắc tướng” cùng “không tướng” qua lại lẫn nhau trong Chân Tâm thường hằng, chu biến khắp pháp giới; không có cái “Duy” ngỡ như là “chẳng còn hai bên” nhưng thực ra “Duy” chỉ là “thiên chấp một bên”), sáng suốt hơn, và vị tha hơn. Đây cũng là vốn liếng cần thiết, là hành trang quí báu cho tất cả sự tu tập cùng tinh tấn trong đạo Phật.

Plano, July 14, 2007
Quảng Minh LKH
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2015(Xem: 6091)
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì vậy nhà Phật thường dùng từ “lang thang trong kiếp luân hồi”, cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”.
26/09/2015(Xem: 6364)
Thật vậy, ngay sau khi thành đạo, Đức PHẬT đã tuyên bố “LỜI GIẢI CHO BÀI TOÁN KHỔ” của thế gian một cách rất ngắn gọn, giản dị, và rõ ràng; Chỉ như sự chửa bệnh của một ông Bác sĩ: "Nầy các tỳ kheo, bởi vì không thông hiểu, không thấu đạt Bốn Sự Thật Cao Quý mà ta cũng như quý vị từ lâu đã phải trãi qua nhiều kiếp luân hồi trong vòng sinh tử... Bằng cách thông hiểu, bằng cách thấu đạt 4 SỰ THẬT: 1) SỰ THẬT về KHỔ, 2) SỰ THẬT về NGUYÊN NHÂN của KHỔ 3) SỰ THẬT về NIẾT BÀN (lúc khổ tận diệt) 4) SỰ THẬT về CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NIẾT BÀN lòng tham thủ về sinh hữu được đoạn tận, sự hỗ trợ để sinh hữu được phá hủy, và từ đó không còn khổ đau vì sinh tử nữa."
08/09/2015(Xem: 5663)
Công cuộc giáo hoá độ sanh của Đức Phật thành tựu viên mãn chính nhờ Ngài tu tập Tứ vô lượng tâm đạt đến vô lượng. Tứ vô lượng tâm là Bốn tâm vô lượng bao gồm: Từ vô lượng tâm, Bi vô lượng tâm, Hỷ vô lượng tâm và Xả vô lượng tâm. “Từ” nguyên văn là: “Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc”
01/09/2015(Xem: 3741)
Theo thông lệ vào mùa an cư, tôi có ít lời sách tấn chư Tăng Ni và nhắc nhở Phật tử nỗ lực tu học. Người xuất gia mang trọng trách dìu dắt Phật tử cho nên đường hướng phải nắm cho thật vững. Hiểu lờ mờ, thực hành không đến nơi đến chốn, hướng dẫn người khác lệch đường, công đức không có, lại trở thành tội. Phật tử cũng cần biết định hướng tu hành cho đúng đắn để đạt lợi lạc cho bản thân, gia đình và xã hội.
19/08/2015(Xem: 5954)
Chúng ta cần biết rằng tu để thành Phật, là điều rất khó nếu không nói là hoang tưởng. Vì bản thân cái sự tu hành chuyên nghiệp trong chùa của chúng ta, nó cũng giống như là trường lớp giáo dục vậy. Nó có quá nhiều phương tiện và quy tắc bên ngoài ràng buộc, cho nên chúng ta khó lòng có đủ dũng khí để phá bỏ tất cả những cái đó đi, mà thành Phật được lắm.
13/08/2015(Xem: 6993)
Nói đến tu hành là nói đến tội phước, nếu không rõ tội phước tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứ lao mình trong tội lỗi, ấy là người tạo tội chớ không phải là người tu hành. Mọi sự an vui và đau khổ gốc từ tội phước mà sanh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hành chúng ta phải thấu hiểu tội phước. Tội phước là những hành động thiết thực trong cuộc sống này, không phải là chuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hành phải thấu đáo phải phân rành vấn đề tội phước.
01/07/2015(Xem: 28995)
Trên bước đường tu học Phật, ít nhiều gì, Phật tử cũng thường hay gặp phải những thắc mắc, nghi vấn các vấn đề mà tự mình chưa có thể tìm ra giải đáp. Có những nghi vấn mang tính chất thuần túy kinh điển, nặng về phần nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, cũng có những nghi vấn liên quan thiết thân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà bất cứ người Phật tử nào cũng gặp phải trong khi tu học. Khởi đi từ yếu tố thiết thực đó và cũng muốn để trao đổi trong nhu cầu nghiên cứu, học hỏi Phật pháp, nhứt là đối với những người hằng quan tâm đến Phật giáo, suốt thời gian qua, trong các khóa tu học ngắn hay dài hạn, đều có đề ra mục Phật Pháp Vấn Đáp, để cho quý Phật tử nêu ra những nghi vấn thắc mắc. Và những nghi vấn thắc mắc nầy, đã được thầy Phước Thái gom góp lại để giải đáp thành 100 Câu Hỏi Phật Pháp. Năm 2010, 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 2 đã được ấn hành 1500 bản. Sách ấn hành chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn thì số lượng sách đã không còn. Từ đó đến nay (2015), trải qua thời gian 5 năm
11/06/2015(Xem: 11747)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
04/06/2015(Xem: 6729)
Khi truyền dạy các pháp cho người học, nên lặp đi lặp lại, đến khi hành giả thật sự thông hiểu mới thôi, đó là cách tất yếu để các nội dung quan trọng được lãnh hội đầy đủ. Lời Phật là thiện ngữ, bởi Phật chỉ nói những lời thiện, như pháp; đồng thời mang nhiều ý nghĩa, có khả năng dẫn dắt nhân tâm đạt đến thực tướng.
26/05/2015(Xem: 7549)
Cuốn sách này được dịch nguyên văn từ tác phẩm Buddhism key stage one của Jing Yin Ken Hudson. Tôi dịch cuốn sách này và gửi đến Thư viện Hoa Sen với các lý do : - Đạo Phật được truyền bá rộng rãi cho mọi người. Đặc biệt là các em thiếu nhi. Những mầm non cho tương lai mai sau. Các em cần phải hiểu biết Đạo Phật. - Đây là món quà thành kính dâng lên Đức Phật, mong ngài ban phước lành cho mọi người; cho gia đình tôi; cho bạn bè; cho tất cả mọi người. Rất mong Thư viện Hoa Sen duyệt và chọn đăng để làm tài liệu cho các em thiếu nhi học tập.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]