Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phương Tiện Và Trí Tuệ

12/02/201408:43(Xem: 5411)
Phương Tiện Và Trí Tuệ

Phương Tiện Và Trí Tuệ

Là Nền Tảng Của Giải Thoát Giác Ngộ

Lama Yeshe
Minh Chánh chuyển ngữ

Lama_Yeshe_2


Ngày nay, thiền rất phổ biến ở phương Tây. Một số người thực tập thiền nói về sự giác ngộ ngay lập tức, giống như mì ăn liền. Chúng tôi nghỉ rằng điều đó không thể xảy ra. Chúng tôi nghỉ tâm phải tiến hóa, hoặc phát triển dần, giống như khoa học hiện đại đề cập đến sự tiến hóa dần dần. Vì vậy, chúng tôi có những cấp độ về thiền từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc con đường. Một số người chỉ bám vào một phương pháp thiền được ưa chuộng mà họ thường xuyên thực tập, từ khi họ bắt đầu thực tập thiền cho đến kết thúc mạng sống của mình. Truyền thống Tây Tạng cho rằng đó là sai lầm: thay vì chỉ thực tập một phương pháp thiền, khi đạt được một cấp độ nhất định, bạn hãy tiếp tục thực tập cấp độ thiền khác, sau đó thực tập cấp độ khác nữa v.v theo trình tự hợp lý. Đây là những gì chúng tôi muốn trình bày từng bước một con đường dẫn tới giải thoát.

Tôi không phải là quan tòa xét xử tâm thức, bảo bạn là cái này hay cái nọ; tôi chỉ là người trình bày cách thức để truyền bá sự thực tập thiền. Tất cả chúng ta đều cần có hạnh phúc. Vậy, bằng cách nào để quan sát kỉ con đường chúng ta đang đi sẽ đưa mình đến với mục đích đó, phương pháp hữu hiệu nhất dẫn chúng ta đạt được hạnh phúc? Đó là những gì chúng ta cần phải biết.

Cũng vậy, Phật giáo đại thừa nhấn mạnh sự thực tập tương thích của phương tiện và trí tuệ. Nếu có trí tuệ mà không có phương tiện, thì không thể đạt được những nhận thức giác ngộ. Điều này rất chính xác: những người sùng đạo và các thiền sinh có những ý tưởng tuyệt với nhưng thiếu phương tiện để đưa các ý tưởng ấy vào thực hành. Do đó, các ý tưởng tuyệt vời của họ trở nên vô dụng. Tương tự, ở phương Tây, nhiều người có tri thức hiểu biết rộng lớn nhưng không có quá nhiều phương tiện. Đây là một vấn đề. Như đức Phật đã dạy: “chỉ có tri thức hiểu biết thì không đủ để đạt được những nhận thức thông suốt”.

Bây giờ, tôi không có nhiều thời gian để trình bày, nhưng tôi hy vọng tất cả các bạn thực tập phương tiện và trí tuệ nhằm thiết lập con đường dẫn tới giải thoát và tìm thấy an vui tuyệt đối càng sớm càng tốt. Và nếu có bất cứ vấn đề gì, thì cứ hỏi điều nào bạn thích. Khong có gì sai trái với thảo luận của chúng ta về tất cả điều này. Phật giáo Tây Tạng rất cởi mở. Neus thích, bạn có thể nói cho tôi biết bất cứ điều gì tôi đã nói là sai. Không có vấn đề gì cả. Bằng cách đó, tôi cũng học hỏi được thêm nhiều điều. Tôi chưa giác ngộ, nên thảo luận là điều quan trọng nhất.

Hỏi: Lama, các ngài bị buộc phải rời khỏi Tây Tạng. Vậy, làm thế nào các ngài thực hiện công việc lưu vong của mình?

Lama: Vâng, miễn là mọi người gắn chặt cuộc sống của họ với nhau, không có vấn đề gì nếu họ mất nhà cửa và đất nước, họ vẫn có cuộc sống tốt mà. Đôi với tôi, mọi quốc gia trên thế giới đều là nhà của mình. Buộc phải rời khỏi Tây Tạng không khiến tôi trở nên lo lắng hoặc khốn khổ. Tôi vẫn bình thường. Ở đây, tôi gặp người Anh, ăn thức ăn của Anh, thực sự hạnh phúc lắm. Phải nói đây là một câu hỏi hay. Thực chất, khi một số người bị buộc phải rời khỏi quê hương của mình, tất nhiên họ bị tổn thương về mặt tâm lý và bị bệnh. Nhưng nói chung, người Tây Tạng hiểu rõ luật nhân quả—nghiệp—và nhận thấy khi sống trên đất nước khác, họ có thể chấp nhận những hành động mình gây tạo trong quá khứ có đã đặt họ vào tình huống này, vì vậy, họ camt thấy dể dàng chấp nhận hơn. Việc phản đối thực tế có thể khiến bạn tự sát.

Hỏi: Ngài nói rằng chúng ta cần xem xét chính mình để thấy những gì mình đang làm là đứng hay sai theo động lực thúc đẩy. Nhưng không có sự nguy hiểm khi thường xuyên phân tích các pháp và trở nên quá rối ren đến nổi không những không nắm bắt được gì từ đó mà còn tồi tệ hơn lúc khởi đầu của chúng ta? Hoặc ngài cho rằng đó là tình huống tốt?

Lama: Bạn nói rất đúng. Điều đó có thể trở nên nguy hiểm nếu bạn xem xét quá nhiều trong việc sử dụng sai phương tiện. Nhưng nếu xem xét các hoạt động thân, miệng và ý của bạn với phương tiện tinh xảo và trí tuệ, thì không có nguy hiểm; càng xem xét bạn càng trở nên tỉnh táo và nhận thức rõ ràng hơn. Hầu hết thời gian trong những mối quan hệ với gia đình và bạn bè, chúng ta hành động một cách thiếu ý thức và rốt cuộc gây tổn thương cho những người gần gủi nhất với mình. Tôi đồng ý, nếu quan sát tâm mình theo cách miễn cưỡng, thì bạn không tìm thấy bất cứ điều gì và trên thực tế có thể trở nên nguy hiểm. Do đó, tôi cho rằng nếu quan sát giải thoát nội tại với an vui vĩnh viễn, thì bạn cần có phương tiện hoàn hảo và trí tuệ tuyệt đối. Tuy nhiên, đó không phải là một công việc dể dàng. Dù bạn có được sự tập trung duy nhất vào một đối tượng, điều này cũng chưa đủ.

Hỏi; Các yếu tố ngoại tại như chế độ ăn kiêng, thói quen ngủ nghỉ và kế sinh nhai có ảnh hưởng gì đến tính chất thiền định của một ai đó không? Đặc biệt, thực phẩm bạn dùng có quan trọng không? Ví dụ, tôi là người ăn chay nhưng nhiều người không ăn chay và thịt khiến được xem như khiến họ trở nên hung hãn và tàn bạo hơn. Đây không phải là điều có thể được chứng minh dể dàng, nhưng nhiều người, bao gồm cả tôi, có khuynh hướng tin tưởng điều đó. Vậy, quan điểm của ngài đặc biệt về điều này là gì?

Lama: Chúng ta có một vài hạn chế ăn kiêng khi chắc chắn thực tập thiền nơi mà có một số thực phẩm cần dùng và thứ khác thì không nên dùng như thịt, cá, tỏi, hành và củ cải trắng. Nhưng khi chắc chắn thực tập những phương pháp thiền khác, thì có thể dùng các thực phẩm đó. Bây giờ, nói chung, trong khi những người bình thường không nên ăn quá nhiều thịt, trứng hoặc tỏi, nếu bạn đang sử dụng chế độ ăn uống có chứa những thứ này, nhưng bởi vì hoàn cảnh điều kiện nên đột nhiên ngưng sử dụng chúng, thì có thể gây sốc cho cơ thể của bạn. Cũng thế, dù không ăn những thực phẩm như vậy, nhưng đôi lúc bạn phải cần đến vì những lý do sức khỏe. Do đó, tốt hơn bạn phải quân bình và đừng quá cực đoan. Ở Tây Tạng, thỉnh thoảng chúng tôi ăn thịt nhưng không được phép ăn thịt đông vật do tự tay mình giết hoặc sai bảo người khác giết hoặc đặc biệt bị giết cho chúng tôi dùng. Ba loại thịt này có tác động ác nghiệp khủng khiếp nếu liên quan tới chúng và có thể khiến thiền định của bạn trở nên mờ mịt hơn là trong sáng.

Hỏi: Tôi đã từng nghe các Lama ở Tây Tạng xua đuổi ma quỷ. Vậy, đó là những loại ma quỷ gì?

Lama: Đôi lúc có thể do những người nguyên thủy, mê tín tin tưởng rằng họ bị một linh hồn điều khiển và trở nên bệnh, vì thế các Lama có các phương pháp chắc chắn chữa trị cho những người như vậy. Nhưng nói chung, quỷ ma chúng tôi muốn nói ở đây có nghĩa là năng lực của bản ngã. Không có ma quỷ ở bên ngoài, nằm đâu đó chờ đợi bạn. Theo quan điểm Phật giáo, ma quỷ hoặc bất cứ cái gì bạn gọi nó đều nằm ở bên trong chính bạn. Có hằng ngàn loại tâm khác nhau, một số là tích cực (thiện tâm) còn số khác trở nên tiêu cực (ác tâm). Một số tâm tíêu cực là ma quỷ và khi biểu hiện ra, thì chúng hoàn toàn chiếm hữu tâm của bạn. Trong những thời điểm như thế, bạn trở nên một loại ma quỷ. Khi tâm ma chiếm hữu, trí tuệ hay thiện tâm của bạn không có chỗ để thể hiện. Tuy nhiên, bằng cách phát huy sự thực tập thiền định, hoàn thiện động lực thúc đẩy và tịnh hóa tâm mình, bạn có thể tự nhiên điều chỉnh được năng lực bất thiện đó. Vì vậy đây là lý do mà thiền định trở nên vô cùng quan trọng.

Khi người phương Tây cảm thấy tâm lý không thởi mái, họ có xu hướng tìm đến bác sĩ chuyên khoa giúp đở. Theo quan điểm Phật giáo, tất cả chúng sanh đều có hai loại năng lực thiện và bất thiện đồng thời tồn tại trong tâm họ. Bằng cách thực tập thiền, chúng ta có thể dần dần phát huy năng lực thiện tâm, giảm bớt bất thiện và tiếp tục phát triển cho đến khi năng lực bất thiện hoàn toàn được tịnh trừ. Do đó, Phật giáo Tây Tạng hầu như giáo dục môn đồ từ từ; chúng tôi hướng dẫn các học trò theo con đường dàn dần đến giải thoát.

Ngày nay, thiền rất phổ biến ở phương Tây. Một số người thực tập thiền nói về sự giác ngộ ngay lập tức, giống như mì ăn liền. Chúng tôi nghỉ rằng điều đó không thể xảy ra. Chúng tôi nghỉ tâm phải tiến hóa, hoặc phát triển dần, giống như khoa học hiện đại đề cập đến sự tiến hóa dần dần. Vì vậy, chúng tôi có những cấp độ về thiền từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc con đường. Một số người chỉ bám vào một phương pháp thiền được ưa chuộng mà họ thường xuyên thực tập, từ khi họ bắt đầu thực tập thiền cho đến kết thúc mạng sống của mình. Truyền thống Tây Tạng cho rằng đó là sai lầm: thay vì chỉ thực tập một phương pháp thiền, khi đạt được một cấp độ nhất định, bạn hãy tiếp tục thực tập cấp độ thiền khác, sau đó thực tập cấp độ khác nữa v.v theo trình tự hợp lý. Đây là những gì chúng tôi muốn trình bày từng bước một con đường dẫn tới giải thoát.

Hỏi: Khi thực tập thiền, chúng ta tập trung vào hơi thở hay chỉ để tâm tự do hoạt động?

Lama: Nếu bạn là người mới thực tập thiền, hãy tập trung chú ý vào hơi thở tốt hơn là để tâm mình bị các ý tưởng trần tục chiếm hữu, vì đó là điều rất có ích. Thực chất, Phật giáo Tây Tạng không cho rằng việc tập trung tâm ý vào hơi thở là thiền thực sự; chún tôi chỉ xem nó là sự chuẩn bị cho thiền định. Vì sao? Vì nếu tâm bạn bị xúc cảm quấy rầy, hoàn toàn bị cố chấp hoặc tức giận chiếm hữu, thì không thể thực tập thiền. Những gì bạn có thể làm trong các thời điểm như vậy để tạo nên nền móng tốt cho thiền định là phải điều khiển tâm mình bằng cách tập trung chú ý vào hơi thở và nhận biết các cảm xúc. Nếu làm được điều đó, tâm bạn sẽ tự nhiên trở nên tỉnh lặng: đối tượng mà trong đó thù hận và cố chấp bị ám ảnh của bạn biến mất, sau đó, bạn tự do hướng dẫn tâm vào trong bất cứ thiền định nào mà mình chọn lựa.

Hỏi: Khi đang thực tập thiền quán sát, ngài nghỉ về điều gì?

Lama: Nhiều điều có thể trở nên trọng tâm chú ý của thiền phân tích, có nhiều đề mục khác nhau để bạn thực tập thiền. Bạn không thể đơn thuần chỉ định rõ điều này hay điều kia. Cũng vậy, thiền Phật giáo phụ thuộc vào thiền sinh riêng biệt, những gì mỗi người cần đến trong bất cứ thời gian nào được xác định.

Hỏi: Theo y học phương Tây, có một sự phát triển liên quan đến những lợi ích mà thiền định có thể khiến mọi người thoát khỏi khổ đau do bị trầm cảm, cả vật chất lẫn tinh thần. Tôi tự hỏi liệu trong những chuyến du hóa của mình đến phương Tây, ngài có từng tiếp xúc với các bác sĩ đang bắt đầu quan tâm tới phương pháp thực tập đặc biệt này. Ngài đã nói chuyện với họ và chỉ rõ ý nghĩa sâu sắc hơn về thiền?

Lama: Cách đây vài tháng, tôi đã gặp một nhóm bác sĩ tâm lý tại Melboume, nước Úc, và chúng tôi có cuộc thảo luận lý thú về các bệnh nhân mắc phải các vấn đề tâm lý. Tôi cũng đã từng nói chuyện với các bác sĩ người Mỹ qua những đề tài tương tự. Tôi nghỉ họ vẫn đang xem xét và phát triển, thí nghiệm theo khoa học, kết quả, các học thuyết của họ cũng luôn luôn thay đổi và phát triển. Tôi nghỉ họ đang thực hiện công việc tốt. Cũng vậy, Phật giáo Tây Tạng có điểm chung với khoa học, lôgic học và triết học hơn với những gì người bình thường nhìn nhận về tôn giáo. Đó là tất cả những gì chúng tôi có thời gian trình bày trong pháp thoại tối nay. Cám ơn rất nhiều về sự có mặt của bạn. Nếu có gì không phải, thành thật cho tôi xin lỗi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5650)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 15254)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4905)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5412)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5497)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5366)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6096)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4939)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4797)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 15774)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]