Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Thời

11/12/201421:34(Xem: 6189)
Một Thời
qd-phatthichca-icMột Thời

NGUYỄN THẾ ĐĂNG

Một thời là chữ bắt đầu của kinh Phật: “Một thời Phật tại nước Xá-vệ..”, “Một thời Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ-xà-quật…” (tạng Hán Bắc tông). “Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường…”, “Một thời Thế Tôn đang ở thành…”(tạng Pali Nam tông).

Một thời…Với tâm thức bình thường, hạn hẹp của chúng ta thì nghe như xa lắm. Một thời…đã qua, đã là một cái chết xa xôi trong quá khứ. Sự “đang đi”, “đang ở” ấy là thời hiện tại của một quá khứ không còn nữa, một quá khứ đã chết.

Nhưng nếu một thời của Phật cũng giống như một thời của chúng ta (ai mà chẳng có những một thời của riêng mình: ngày đó…) thì chắc là đạo Phật cũng chẳng còn ở trên đời này.

“Nhất thời, Phật tại…”

Một thời, đây hẳn nhiên là một thời của thời gian. Nhưng thời gian ở đây là thời gian của giác ngộ.

Trong ý nghĩa đó, một thời là thời gian thuần túy, thời gian đã hoàn toàn được tịnh hóa hêt vô minh. Cho nên một thời này có trong tất cả mọi thời điểm của thời gian, có trong tất cả mọi hạt điểm của không gian.

Như một thí dụ từ rất xưa, mặt trăng khi không còn bị mây che thì có trong tất cả mọi ao hồ sông nước. Một thí dụ khác: một thời là một giọt nước. Khi nó ở trong đại dương thì giọt nước ấy là toàn thể đại dương. Một thời khi thật sự ở trong thời gian thì một thời ấy là toàn thể thời gian.

Đó là sự vô ngại của thời gian, sự vô ngại của ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai: “Một kiếp vào trong tất cả kiếp, tất cả kiếp vào trong một kiếp mà không làm hư hoại thời gian” (Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới). “Trong một niệm có đủ ba thời” (phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện). Thế nên Phật hiện diện trong tất cả mọi thời gian không gian: “Phật thù đặc nhất trong tất cả, quang minh chiếu khắp đồng hư không, trước các chúng sanh đều khắp hiện, trăm ngàn muôn kiêp các quốc độ, trong một sát na đều hiện rõ, phóng quang độ người đồng đều khắp” (phẩm Chế Thủ Diệu Nghiêm).

Một thí dụ cụ thể: “Ngài Trí Khải sáng lập Thiên Thai tông nhập thất trì tụng kinh Pháp Hoa suốt 21 ngày đêm. Tụng đến phẩm Dược Vương Bồ-tát bổn sự, đến câu ‘Thị chân tinh tấn, thị danh chân pháp cúng dường’ thì hoát nhiên khai ngộ, thấy pháp hội Linh Sơn rõ ràng chưa tan. Mới biết được rằng Đức Thích Ca Mâu Ni vẫn còn thuyết pháp ở Linh Sơn nhưng chúng sanh vì che chướng sâu dày nên không thấy được”.

Một sự kiện của quá khứ thấm vào khắp hiện tại và tương lai, nhiếp nhập với tất cả hiện tại và tương lai. Đó là kiến giải cao nhất của đạo Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Thế nên, ngay ở thời điểm này và ngay tại đây, chúng ta vẫn sống trong một hiện tại trùm khắp cả ba thời, một hiện tại vĩnh cửu trải khắp đồng thời có mặt trong mọi thời điểm của cả ba thời: “Một thời Phật tại…”

Đạo Phật là cái thời gian vĩnh viễn đang là và cái không gian vĩnh viễn đang là ấy. Những người bình thường chúng ta thì sống trong một thời gian chia cắt, phân mảnh, ngăn cách, và do đó thời gian là một tiêc nuối, một mất mát, một khổ đau. Trong văn chương thì “Một thời để yêu và một thời để chết” (E. M. Remarque), “Biển của thời đã mất” (G. G. Marquez).

…Ngay cả đối với khoa học, thì “Tại sao có mũi tên thời gian? Thời gian trôi về phía trước do một đặc tính của vũ trụ gọi là “entropy”. Các câu hỏi về entropy vẫn chua được trả lời…” (Chín bí ẩn của vật lý học đương đại, Natalie Wolchover, Tạp chí Tia Sáng, 20/8/2012).

Thực hành đạo Phật là để làm quen, để sống dần dần cái Một Thời ấy. Chúng ta hãy biết chuyển hóa cái thời gian mất mát của mình thành cái một thời phổ quát của đạo Phật. Có như thế thời gian mới không là sự mất mát mà là một kho tàng, một gia tài quý báu. Đạo Phật kêu gọi con người giải thoát. Giải thoát là giải thoát khỏi thời gian manh mún, chia cắt và mất mát. Giải thoát khỏi thời gian là đi vào cái Một Thời này.

Hãy sống cái một thời ấy trong mọi thời của một ngày bình thường của mình. Hãy thấy cái một thời ấy trong từng chiếc lá đang xanh hay đang rụng, trong từng sự vật dẫu nhỏ nhoi trước mắt. Hãy nhìn mọi người trong cái một thời ấy, để thấy chưa từng có sự cách ngăn, chia rẽ, chưa từng có một vết nứt nào trong thế giới thuần chân này. Và ngày nào nhắm mắt chết, hãy nhắm mắt trong cái một thời ấy.

Một thời là cái đang là, vĩnh viễn đang là, suốt từ quá khứ, hiện tại, cho đến tương lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2014(Xem: 15429)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4933)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5462)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5533)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5401)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6118)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4968)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4816)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 15974)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
16/09/2014(Xem: 18911)
Trên ngực Phật, hay trên những trang kinh của Phật, ta thường thấy có chữ VẠN. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy có hai lối viết khác hẵn: Một là, “chữ vạn” hướng xoay theo chiều kim đồng hồ (lối viết A); hai là”chữ vạn” xoay ngươc chiều kim đồng hồ (lối viết B)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]