Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thủy Giác

24/12/201308:39(Xem: 10089)
Thủy Giác

lephat


Thủy Giác

o0o

T/S Lâm Như Tạng





I-Khảo sát một

Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì :

“Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác).

Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.” 

Trong từ điển A Dictionary of Chine Buddhist Terms có viết về Thủy Giác như sau:

“Thủy Giác: The initial functioning of mind or intelligence as a process of “becoming”, arising from Bổn Giác which is Mind or Intelligence, self-contained, unsullied, and considered as universal, the source of all enlightenment. The “initial intelligence” or enlightenment arises from the inner influence “Huân” of the Mind and from external teaching. In the “original intelligence” are the four values adopted and made transcendent by the Nirvãna-Sũtra, viz. (Thường, Lạc, Ngã, Tịnh) perpetuity, joy, personality, and purity; these are acquired through the Thủy Giác process of enlightenment. Cf. Khởi Tín Luận Awakening of Faith.”

Trong Từ Điển Phật Học Hán Việt (đã trích dẫn ở phần trước) thì:

“Thủy Giác: Tâm thanh tịnh, tự tính của bản tính của hết thảy chúng sinh vốn có đức sáng gọi là Bản Giác. Do sự hun đúc bên trong của Bản Giác ấy, cùng với sự truyền dạy của thầy làm nhân duyên bên ngoài mà bắt đầu khởi lòng chán nản đối với mọi tham cầu, từ đó dần dần nẩy sinh trí tuệ giác ngộ, gọi là Thủy Giác. Bốn đức (Thường, Lạc, Ngã , Tịnh) vốn có sẵn, gọi là Bản Giác: bốn đức mới hình thành gọi là Thủy Giác.

Luận Đại Thừa Khởi Tín viết: Vì nương theo Bản Giác mà còn có sự không tự giác, cho nên gọi là Thủy Giác (mới giác ngộ, mới tỉnh giấc)”. 

II - Khảo sát hai

Trong “Phật Quang Đại Từ Điển” viết về Thủy Giác như sau:

“Thủy Giác , đối lại với Bản Giác.

Sự giác ngộ do quá trình tu tập hậu thiên mà đạt được.

Luận Đại Thừa Khởi Tín cho rằng thức A Lại Da có hai nghĩa là Giác và Bất Giác. Giác lại có Thủy Giác và Bản Giác khác nhau.

Trong đó, trải qua quá trình tu tập hậu thiên, dần dần đoạn trừ vọng nhiễm từ vô thủy đến giờ mà biết được nguồn tâm tiên thiên, gọi là Thủy Giác cũng tức là phát tâm tu hành, lần lược sinh khởi trí đoạn hoặc, phá vô minh, trở về bản tính thanh tịnh của Bản Giác. Đại thừa cho rằng tâm người ta xưa nay vốn lặng lẽ bât động, không sinh không diệt, thanh tịnh vô nhiễm gọi là Bản Giác (tâm thể giác xưa nay vốn lìa niệm); sau vì gió vô minh dấy động, sinh ra các hoạt động ý thức thế tục, từ đó có các sự sai biệt ở thế gian, đó gọi là Bất Giác; cho đến khi được nghe Phật Pháp, mở ra Bản Giác, huân tập Bất Giác, đồng thời dung hợp Bất Giác và Bản Giác làm một, tức gọi là Thủy Giác.

Luận Đại Thừa Khởi Tín lại chia Thủy Giác làm 4 giai vị, đồng thời phối hợp 4 giai vị nầy với các giai đoạn tu hành của Bồ Tát Đại Thừa, đó là:

(4 giai vị dưới đây đã nêu ra trong phần nói về Bản Giác ở trên nhưng trong phần nầy xin ghi lại để độc giả có cái nhìn so sánh rỏ hơn về sự khát biệt giữ Bản Giác và Thủy Giác)

1- Bất Giác: Giai vị Thập Tín (ngoại phàm vị) tuy đã biết quả khổ là do các ác nghiệp mang lại, nên thân, khẩu không còn tạo tác các việc ác, nhưng vẫn chưa sinh khởi trí đoạn hoặc.

Thập Tín: mưòi đức tu hành mà tín tâm là đức đứng đầu, nên gọi là Thập Tín. Trong hàng 52 địa vị tu hành của Bồ Tát 10 địa vị hang thứ nhất gọi là Thập Tín. Vì muốn vào hang Giáo Pháp của Phật trước hết phải có lòng tin. Thập Tín được ghi như sau:

  • 1/Tín Tâm (lòng tin): diệt hết tất cả các mối vọng tưởng , ấy trung đạo thuần chơn.
  • 2/Niệm Tâm: Lòng chơn tín đã tỏ rõ rồi, tất cả viên thong, trải qua bao nhiêu cuộc sống thác chẳng sót quên cái tập khí hiện tiền.
  • 3/Tinh Tấn Tâm: diệu viên thuần chơn, đem sự tinh minh mà tu tiến tới cõi chơn tịnh.
  • 4/ Huệ Tâm: lòng tinh tấn đã hiện ra thì trí huệ thuần chơn tự nhiên phát khởi. 
  • 5/Định Tâm: chấp trì trí sáng thì lòng tịch tỉnh trong sáng bủa kháp cả, thường chú tâm vào một cảnh vật… 
  • 6/ Bất thối tâm: định quang phát minh thì tánh sang càng vô sâu, chỉ tiến mà chẳng thối lui.
  • 7/ Hộ pháp tâm: lòng tấn tới một cách an nhiên thì bảo trì được tất cả Phật Pháp mà chẳng bỏ rơi. Chư Phật Như Lai mười phương đều truyền cho mình phần khí giao thiệp…
  • 8/ Hồi hướng tâm: Giác và Minh đã được bảo trì, mình có thể đem diệu lực cảm được hào quang của Phật chiếu lại, hướng về Phật mà an trụ.
  • 9/ Giới Tâm: ánh sáng quay lại trong lòng, mình an trụ trong cảnh vô vi mà chẳng sai sót.)
  • 10/ Nguyện Tâm: Trụ ở giới hạnh thì được tự tại, mình có thể đi khắp mười phương, làm mọi công việc tùy theo sở nguyện của mình vậy. 

2-Tương tự giác: Hàng nhị thừa và Bồ Tát giai vị Tam Hiền tuy đã xa lìa ngã chấp, biết lý ngã không, đoạn trừ các phiền não tham, sân, kiến, ái…nhưng vẫn chưa lìa bỏ ý niệm phân biệt pháp chấp.

Tam Hiền , ba bực Hiền: đó là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Hiện là bực phát khởi cái ý muốn giải thoát khỏi các điều mê lầm. Vì chưa chứng quả Thánh nên gọi là Hiền.

a Thập Trụ: Mười địa vị an trụ của Bồ Tát Đại Thừa.

Bồ Tát chứng được trụ vị thứ 10 là địa vị cao nhất tức Thập Trụ Bồ Tát Ma Ha Tát. Thập Trụ có giải rỏ trong kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển 8 như sau:

  • 1/ Phát Tâm Trụ: Đem cái phương tiện chơn thật mà phát khởi 10 mối lòng trụ. thiệp vào chổ dụng của 10 lòng tin (Thập Tín) viên thành địa vị nhất tâm vậy.
  • 2/ Trì Địa Trụ: tâm sáng trong như trong kiến pha lê hiện ra chất tinh kim, đem cái tâm mầu nhiệm trước mà quản trị nó, cho nên gọi là Trì Địa.
  • 3/ Tu hành Trụ: nhờ đã trải qua địa vị trước, sự hiểu biết trở nên minh bạch hiểu liễu bèn chu du mười phương mà chẳng lưu ngại.
  • 4/ Sanh Quí Trụ: nhận lấy phần khí lực của Phật, thông bề nầy và bỏ bề kia, bèn nhập dòng giống Như Lai.
  • 5/ Phương Tiện Cụ Túc Trụ: tự lợi và lợi tha, phương tiện đều đủ, tướng mạo chẳng khuyết lậu.
  • 6/ Chánh Tâm Trụ: chẳng những tướng mạo, tâm tướng cũng đồng với Phật.
  • 7/ Bất Thối Trụ: thân tâm hiệp thành, càng ngày càng tăng trưởng, không còn lui bước đối với Phật quả.
  • 8/ Đồng Chơn Trụ: cái tướng thiêng liêng của Mười Thân Phật đồng thời đủ hết.

(Mười Thân Phật có 2 loại:

(a) Một là mười thân dung thông ba thế gian: 1/ Thân chúng sanh. 2/ Thân quốc độ. 3/ Thân nghiệp báo. 4/ Thân Thanh Văn. 5/ Thân Độc Giác. 6/ Thân Bồ Tát. 7/ Thân Như Lai. 8/ Thân Trí : là thân đức Phật có đủ, chứng được cái thật trí. 9/ Thân Pháp: là thân Phật có đủ , chứng được chơn lý. 10/ Thân hư không: là thân lìa khỏi hai tướng Nhiễm và Tịnh nhưng theo hai phần nhiểm, tịnh ấy biến ra khắp pháp giới, là cái thật thể vô hình hư vậy.

(b) Hai là 10 thân mà Phật có đủ: 1/ Thân Bồ Đề. 2/ Thân nguyện. 3/ Thân hóa. 4/ Thân trụ trì. 5/ Thân tướng hảo trang nghiêm. 6/ Thân thế lực. 7/ Thân như ý. 8/ Thân phước đức. 9/ Thân trí. 10/ Thân pháp.)

  • 9/ Pháp Vương Tử Trụ: Bồ Tát thành bực Pháp Vương Tử (Kumara) , con tinh thần của bực Pháp Vương, làm tiếp công việc với bực Pháp Vương, làm nổi Phật sự.

Từ trụ vị thứ nhất là Phát Tâm Trụ đền trụ vị thứ tư là Sanh Quí Trụ , gọi là Nhập Thánh Thai.

Từ trụ vị thứ năm là Phương Tiện Cụ Túc Trụ đến trụ vị thứ tám là Đồng Chơn Trụ, gọi là Trưỡng Dưỡng Thánh Thai.

Ở trụ vị thứ chin nầy có hình tướng đều đủ gọi là Xuất Thánh Thai.

  • 10/ Quán Đảnh Trụ: Bồ Tát đã thành Pháp Vương Tử , đảm đương nổi Phật sự, Phật bèn đem nước trí tuệ mà rưới lên đỉnh đầu. Đó cũng như vị vương tử dòng Sát-Ly khi lên ngôi quốc vương thì thọ lễ quán đảnh nơi tay một vị sư Bà La Môn vậy.

Kinh Niết Bàn, quyển 27 viết: bực Bồ Tát còn trụ nơi Thập Trụ cho nên chẳng thấy rỏ Phật Tánh. Bậc Thế Tôn, bậc Như Lai vốn là bất trụ, bất khứ cho nên thấy rỏ Phật Tánh.

b-Thập Hạnh:Bồ Tát trong khi tu hành kể cả tự lợi và lợi tha. Về việc tự lợi thì tu theo Thập Tín, Thập Trụ. Về lợi tha cần tu Thập Hạnh như sau: 1/ Hoan hỷ hạnh. 2/ Nhiêu ích hạnh. 3/ Vô Sân Hạnh. 4/ Vô Tận Hạnh. 5/ Ly Si Loạn Hạnh. 6/ Thiện Hiện Hạnh. 7/ Vô Trước Hạnh. 8/ Tôn Trọng Hạnh. 9/ Thiện Pháp Hạnh. 10/ Chơn Thật Hạnh. (Tham khảo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 8)

c-Thập Hồi Hướng: hồi hướng là đem công đức tu hành của mình mà xây về cho chúng sinh, xây về quả Phật…:

1/ Cứu hộ chúng sinh, ly chúng sanh tướng hồi hướng.

2/ Bất hoại hồi hướng. 3/ Đẳng nhứt thiết chư Phật hồi hướng.

4/ Chí nhứt thiết xứ hồi hướng. 5/ Vô tận công đức tạng hồi hướng. 6/ Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.

7/ Tùy thuận đẳng quán nhứt thiết chúng sanh hồi hướng.

8/ Chơn như tướng hồi hướng. 9/ Vô phược giải thoát hồi hướng. 10/ Pháp giới vô lượng hồi hướng.

3- Tùy phần giác: Hàng Bồ Tát từ sơ địa trở lên đến địa thứ 9 đã xa lìa niệm Pháp chấp, rõ biết tất cả pháp đều do tâm biến hiện, tức sự giác biết tùy theo cảnh giới tu chứng và địa vị chuyển lên mà ngộ một phần lý chân như pháp thân.

Thập Địa Bồ Tát: (Dasabhũmi) y cứ trong các kinh đại thừa như Hoa Nghiêm, Nhơn Vương có Đại Thừa Bồ Tát Thập Địa như sau:

1/ Hoan hỷ địa. 2/ Ly cấu địa. 3/ Phát quang điạ. 4/ Diễm huệ điạ. 5/ Cực nan thắng địa. 6/ Hiện tiền địa. 7/ Viễn hành địa. 8/ Bất động địa. 9/ Thiện huệ địa. 10/ Pháp vân địa.

4- Cứu Cánh Giác:Hàng Bồ Tát Địa thứ 10 đã đầy đủ nhân hạnh, dùng tuệ giác tương ứng với một niệm để giác biết chỗ sơ khởi của tâm, đồng thời xa lìa niệm vi tế, thấy suốt toàn bộ tâm tính.

Theo luận Thích Ma Ha Diễn thì giáo nghĩa của Mật Giáo cũng chia “Giác Tính” làm 4 thứ, trong đó hai thứ trước tức là Bản Giác và Thủy Giác , rồi lại y cứ theo sự Nhiễm và Tịnh khác nhau của mỗi thứ mà chia thành Thanh Tịnh Bản Giác, Nhiễm Tịnh Bản Giác, Thanh Tịnh Thủy Giác, Nhiễm Tịnh Thủy Giác …, đồng thời nói rõ về mỗi thứ mà luận chỉ ý thú khác với thuyết của luận Đại Thừa Khởi Tín được trình bày ở trên.

Mật Giáo lại gọi Hiển Giáo là Thủy Giác Tông và gọi tông mình là Bản Giác Tông. Vì Mật Giáo cho rằng Hiển Giáo phải tu hành trải qua nhiều kiếp mới giác ngộ được bản chân, trừ bỏ mê tình mà trở về chân lý vô tướng.

(Luận Thích Ma Ha Diễn q.3; Đại Thừa Khởi Tín Nghĩa Ký q. trung, phần đầu, xt Bản Giác). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/06/2014(Xem: 14193)
CHÁNH PHÁP BỘ MỚI: Số 31, tháng 06.2014 Hình bìa của Nhiên An ChanhPhap 31 (06.14) ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ TA NGHĨ VỀ ĐẤT NƯỚC TA (thơ Mặc Phương Tử), trang 8 ¨ ĐẠO PHẬT VIỆT TK THỨ I VÀ THỜI KỲ BẮC THUỘC (HT. Thích Đức Nhuận), trang 9 ¨ BẢN LÊN TIẾNG V/V TRUNG QUỐC XÂM PHẠM LÃNH HẢI VIỆT NAM… (VP Điều Hợp GHPGVNTN Liên Châu), trang 13 ¨ PHÁP TỪ PHẬT ĐẢN PL. 2558 (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 15 ¨ VÌ HÒA BÌNH VÀ AN LẠC CHO THẾ GIỚI (HT. Thích Minh Tuyên), trang 16 ¨ HUẤN TỪ AN CƯ (TK. Thích Huyền Quang), trang 18
30/05/2014(Xem: 6628)
Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (1). Đây là những yếu tố vật chất và tinh thần được kết hợp lại mà có cái gọi là con người, là chúng sanh. Khi không gọi là ngũ uẩn mà gọi là danh và sắc thì ta cũng phải hiểu: Sắc là sắc thân vật lý, và danh là gọi chung của phần tâm và tâm sở gồm có thọ, tưởng, hành và thức.
29/05/2014(Xem: 4969)
Vô Ngã có phải là một vấn đề bế tắc của nhân sinh? Cái mà trước đây các bậc hiền triết, các nhà sáng lập tôn giáo, kể cả đức Phật muốn tìm. Đó là một cái chân ngã, cái ngã thật, tức là cái Tôi cái Ta không bị chi phối, không bị thay đổi theo không gian và thời gian. Nhắc đến Phật giáo, chúng ta thấy đạo Phật chủ trương Vô Ngã, thuyết minh về Vô Ngã, và Vô Ngã xem như là học thuyết nòng cốt của đạo Phật. Trong Tam Pháp Ấn, Vô Ngã là một trong ba ấn định đặc thù về chân lý Phật giáo: vô thường, khổ, vô ngã. Vì vậy, mọi hành động dính mắc ta đều có cảm giác rằng hành động đó còn ngã thì làm sao gọi là tu, làm sao giải thoát được?
28/05/2014(Xem: 8619)
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo. Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín đồ bắt buộc răm rắp tuân theo.
26/04/2014(Xem: 13070)
Các tài liệu nghiên cứu cho biết chữ VẠN vốn không phải là văn tự, chữ viết (word), mà chỉ là ký hiệu (symbol). Nó xuất hiện rất sớm, có thể là từ thế kỷ thứ 8 trước công nguyên và đến thế kỷ thứ ba trước công nguyên mới được dùng trong kinh Phật. Nhưng ký hiệu này đã không thống nhất. Có chỗ viết theo mẫu (A), ngược chiều kim đồng hồ, có chỗ viết theo mẫu (B), thuận theo chiều kim đồng hồ, như hình vẽ trên. Từ đó có những lý luận cho rằng chữ VẠN của Phật giáo phải xoay hướng này thì đúng còn hướng kia thì sai.
26/04/2014(Xem: 7341)
Đây là vòng 12 nhân duyên. Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với
23/04/2014(Xem: 5890)
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh ấy là Thường Lạc Ngã Tịnh.” Câu nói đó lập đi lập lại nhiều lần trong kinh Đại Bát Niết-bàn, cũng là chủ đề Phật tánh của kinh. Phẩm Bồ-tát Sư tử rống nói: “Sư tử rống là lời nói quyết định: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Như Lai thường trụ không biến đổi.” Sư tử tượng trưng Đức Phật, bậc tối thượng trong ba cõi. Rống là lời tuyên bố dũng mãnh của Trí huệ và Đại bi. Trí huệ vì soi thấy thật tánh của muôn loài là Phật tánh. Đại bi vì lời nói ấy bao trùm tất cả muôn loài. Phật tánh này là cảnh giới của chư Phật, là Đại Niết-bàn.
27/03/2014(Xem: 8820)
Ở đây, tôi đang đề cập đến bản chất tương đối của bạn mà trong đạo Phật thường nhắc tới. Bạn nghỉ rằng : “Bằng cách nào bạn mô tả được bản chất của tôi như vậy? Bản chất của tôi có nhiều khía cạnh khác biệt”. Đó có thể là ý tưởng của phương Tây, còn quan điểm của Phật giáo thì đơn giản hơn nhiều. Theo Phật giáo, bản chất của bạn chỉ có hai khía cạnh là tương đối và tuyệt đối.
25/03/2014(Xem: 10451)
AN CƯ là một trong các pháp chế trọng yếu trong đời sống tu hành của Tăng Đoàn Phật giáo. Chữ “cư” nghĩa là ở; chữ “an” nghĩa là yên, tức là, thân thì không đi ra khỏi chùa, tâm thì chuyên cần tu học, luôn giữ chánh niệm, không chạy theo trần cảnh bên ngoài, không để ý đến các chuyện thế sự. Vậy, “an cư” là ở yên một chỗ, chuyên cần tu tập, giữ cho thân tâm tĩnh lặng, thanh tịnh.
12/03/2014(Xem: 28020)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]