Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật, Nhà Cách Mạng Vĩ Đại

11/08/201304:31(Xem: 7716)
Đức Phật, Nhà Cách Mạng Vĩ Đại

Sakya_Muni_57


ĐỨC PHẬT- NHÀ CÁCH MẠNG

TỊNH MINH

Có thể nói từ lúc đản sanh cho đến ngày nhập diệt, cuộc đời Đức Phật là kết tinh của những chuỗi ngày cách mạng hào hùng.

Theo sử sách, vừa mở mắt chào đời, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha) đã đứng dậy, ngoảnh mặt nhìn bốn hướng, rồi đi bảy bước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là chí tôn”. Xong Ngài nói tiếp: “Từ vô lượng kiếp đến nay, phen này là hết”. Hai lời tuyên bố đó có tính cách quyết định mục tiêu hành động của Ngài: đoạn trừ phiền não, quét sạch vô minh, giải thoát sanh tử, chứng đắc niết bàn, thanh tịnh an lạc.

Chúng ta hãy tìm hiểu vai trò lãnh đạo và sách lược tiến công nhằm đạt đến mục tiêu tối thượng qua các cuộc cách mạng của Ngài.

  1. Cách Mạng Xã Hội:

Trước khi Phật ra đời, Ấn Độ là nước nhiễu nhương, khốn khổ. Giống dân du mục A-lỵ-a (Arya) đã nhanh nhẹn chinh phục thổ dân Đạt-la-tỳ-đồ (Dravida). Họ thiết lập trật tự xã hội, tạo ra luật Mã-nổ (Manu), độc đoán chia dân Ấn ra làm bốn giai cấp:

1. Giai cấp Bà-la-môn (Brahman), tác giả pháp điển Mã-nổ, là giai cấp cao quý nhất, độc quyền về học thuật, tư tưởng và chủ trì tế lễ.

2. Giai cấp Sát-đế-lỵ (Ksatriya), giữ độc quyền về chính trị theo thể chế cha truyền con nối. Họ có toàn quyền sinh sát.

3. Giai cấp Phệ-xá (Vaisya), gồm giới nông, công, thương, không được quyền học hỏi, sống nai lưng ra làm việc để phục vụ cho hai giai cấp giáo sĩ và quý tộc. Họ tha hồ bị áp bức, bóc lột.

4. Giai cấp Thủ-đà-la (Sudra), gồm các thổ dân tiền trú và giống người Đạt-la-tỳ-đồ bại trận. Đây là giai cấp bần cùng, sống trong tủi nhục, bi đát.

Chế độ phân chia giai cấp và người bóc lột người đã làm cho xã hội Ấn Độ ngày càng băng hoại.

Thái tử Tất-đạt-đa, con người bằng xương bằng thịt, sanh ra và lớn lên như muôn ngàn người khác, và mặc dù sống trong nhung lụa, quyền thế, Ngài đã sớm ý thức được cảnh bất công, gian ác của giai cấp thống trị và số kiếp đọa đày, khốn nạn của giai cấp bị trị, nên khi còn ngồi tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề, Ngài đã khẳng định nguyên lý của cuộc cách mạng ấy là: “Đại địa chúng sanh giai hữu Như Lai trí tuệ đức tánh”, tức là hết thảy chúng sanh đều có đức tánh trí tuệ Như Lai. Và sau khi đắc đạo, thấy rõ thực tướng của vạn pháp là Vô Thường – Khổ – Không – Vô Ngã, thấy chúng sanh quay cuồng trong tam đồ lục đạo, thấy mọi hiện tượng thế gian đều sanh thành và huỷ diệt theo tiến trình Thành – Trụ – Hoại – Không, Ngài thốt lên những lời hùng tráng như tiếng sư tử giữa núi rừng dày đặc:

Lang thang bao kiếp sống,

Ta tìm kẻ xây nhà,

Tìm mãi vẫn không ra,

Nên luân hồi đau khổ.

Hỡi kẻ làm nhà kia,

Ta thấy mặt ngươi rồi,

Rui mè đòn dông gãy,

Ngươi hết làm nhà thôi,

Tâm ta chừ tịch tịnh,

Tham ái dứt bặt rồi.

(PC. 153, 154)

Với lòng từ bi cứu độ chúng sanh, với ý thức không ai có quyền tước đoạt quyền sống, quyền bình đẳng, và quyền mưu cầu hạnh phúc của người khác, Ngài xác quyết : “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh : tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, “Tứ chúng xuất gia đồng quy thích thị: bốn giai cấp xuất gia đều mang họ Thích”. Thích có nghĩa là diệt trừ vô minh, phát huy trí tuệ cho mình và cho mọi người. Chính vì thế mà Ngài đã dang tay đón nhận một Ưu-ba-ly (Upali) sống nghề hớt tóc, thuộc giai cấp Thủ-đà-la vào giáo hội, về sau chứng quả A la hán, thành một trong mười đệ tử vĩ đại của Phật, đứng đầu về giới luật; một tiện nữ Bát-cát-đế (Pakati) lăn loàn, sau cũng chứng quả A la hán; rồi đến vũ nữ Ku-va-la-da (Kuvalaya) chuyên nghề bán phấn buôn hương; Ương-quật-ma-la (Angulimàla) cuồng tín giết người đến loạn trí; vua A-xà-thế (Ajatasatru) tham quyền đến sát hại vua cha là quốc vương Tần-bà-sa-la (Bimbisara) cùng vô số công hầu khanh tướng, bá tánh lê dân, tất cả đều được Phật hóa độ theo hạnh: vô duyên đại từ và đồng thể đại bi.

Rõ là không tốn một viên đạn, không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu, Đức Phật đã giảng dạy đạo lý như thật làm đảo lộn cái mà giai cấp Bà-la-môn cho là nề nếp vua quan, kỷ cương luân lý và trật tự xã hội. Đức Phật đã lên án chế độ giai cấp, phong kiến và bóc lột. Con người là con người, không có con người Bà-la-môn hay con người Sát-đế-lỵ. Nhờ tôn chỉ cách mạng, mục tiêu hành động và ý thức giác ngộ của quần chúng, xã hội Ấn Độ dần dần được đổi mới, chế độ giai cấp bị tan rã, nhân dân sống trong cảnh thuần lương, an lạc.

II. Cách Mạng Tư Tưởng:

Nhờ giáo pháp của Phật, quần chúng nhân dân Ấn Độ đã hoàn thành cuộc các mạng xã hội và chuyển sang cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng. Đây là cuộc cách mạng nòng cốt, nhằm giải quyết tự ngã. Đức Phật đã chỉ rõ đâu là căn nguyên của khổ đau, sinh tử, và vạch ra phương hướng đi đến giải thoát.

Lịc sử tư tưởng Ấn Độ cho thấy trong thời Đức Phật có 62 hệ phái thần học và triết học khác nhau, luận chiến quyết liệt về nguồn gốc của nhân sinh và vũ trụ. Các luận sư tha hồ triển khai học thuyết: nào là duy vật duy thần, ngẫu nhiên tiền định, tương đối hoài nghi, thường kiến đoạn kiến v.v… Dân chúng hoang mang ngơ ngác không biết đâu mà theo.

Như nước trong đại dương chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có một hương vị giải thoát. Lời Phật dạy là chánh pháp, là chân lý tuyệt đối. Phật dạy khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Phật dạy các pháp do duyên sanh, không có thật tướng, gọi là vô ngã. Chân lý ấy xưa nay không ai có thể phủ nhận. Chính vì thế mà Xá-lợi-phất (Sariputra) sau khi nghe Mã-thắng (Assaji) đọc bốn câu kệ thì bỏ thầy bỏ đạo, lên đường theo Phật không chút do dự.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên (Maudgalyayana) là hai nhà biện tài và thần thông nổi tiếng thuộc nhóm lục sư ngoại đạo. Một hôm Xá-lợi-phất gặp Mã-thắng đang đi khất thực trong thành Vương-xá, thấy phong thái uy nghi tự tại của Mã-thắng, Xá-lợi-phất cảm phục, đến gần hỏi đạo, được Mã-thắng giảng lý duyên sanh gồm trong một bài kệ:

Các pháp do duyên sanh,

Lại cũng do duyên diệt,

Thầy ta là Đức Phật,

Thường thuyết giảng như vậy.

Xá-lợi-phất nghe xong thì bừng tỉnh, sung sướng xin quy y Phật, sau đó đưa Mục-kiền-liên và hàng trăm đạo hữu đến thọ giáo Đức Thế Tôn. Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trở thành hai cao đệ trí tuệ và thần thông đệ nhứt của đấng đại giác Thế Tôn. Sáu mươi hai trường phái tư tưởng cũng dần dần quy phục Ngài.

Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng tư tưởng tận căn để. Ngài đã chỉ cho chúng sanh thấy vô minh là nguồn gốc của mọi đau thương khốn khổ trên đời. Do đó, mỗi Phật tử phải là một chiến sĩ dũng mãnh, tinh tấn, mặc giáp trụ giới đức, mang cung kiếm định tuệ, bắn phá rừng vô minh, nhổ gốc rễ tham ái, tiêu diệt địch sân si. Bởi vì làm cách mạng văn hóa tư tưởng là làm cách mạng tự thân, tự tâm thanh tịnh thì tư tưởng trong sáng, ngôn ngữ nhu hòa, hành động ái kính, xã hội do đó ngày càng trở nên thanh bình, an lạc. Đúng là:

Tự ta gây ác nghiệp,

Tự ta nhiễm cấu trần,

Tự ta tránh ác nghiệp,

Tự ta tịnh thân tâm,

Nhiễm tịnh do ta cả,

Không ai thanh tịnh ai.

(PC. 165)

Đức Phật không hô hào đốt cháy, tẩy chay cái gọi là văn hóa lai căn, tư tưởng tiêu cực. Ngài chỉ cho ta thấy đâu là căn nguyên của khổ đau và giải thoát, xung đột và an lạc. Cuộc cách mạng xã hội và tư tưởng văn hóa của Ngài không những thành công ở Ấn Độ cách đây 25 thế kỷ mà sẽ còn ảnh hưởng và thành công trong dòng lịch sử của nhân loại.

(Đã đăng trong Nguyệt san Giác Ngộ số 14, tháng 5/1997, kính mừng Phật Đản 2541)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2014(Xem: 8648)
Tứ vô lượng tâm là bốn tâm vô biên, vô lượng, không có ngần mé, bao trùm tất cả chúng sanh. Tứ vô lượng tâm còn được gọi là bốn phạm trú (1) vì khi tu tập thành tựu
09/02/2014(Xem: 9066)
Lại nữa Long vương, nếu xa lìa ác khẩu thì được thành tựu tám món tịnh nghiệp. Những gì là tám? 1. Lời nói không trái pháp độ. 2. Lời nói đều lợi ích. 3. Lời nói hợp lý đạo. 4. Lời nói đẹp khéo. 5. Lời nói có thể lãnh thọ thừa hành. 6. Lời nói được tin dùng. 7. Lời nói không thể chê. 8. Lời nói được ưa thích.
09/02/2014(Xem: 13156)
Tục ngữ Việt nam có những câu: “Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” hoặc: “Tiếng chào cao hơn cổ” hoặc “Ngọt mật chết ruồi”. .v. v... Những câu tục ngữ này chứng tỏ sự lợi hại của lời nói có thể có ảnh hưởng thu phục nhân tâm, hoặc tạo nên nguy hiểm chết người, và từ đó gây nên những nghiệp quả không tốt.
09/02/2014(Xem: 5041)
Hơn nữa, ngay cả ở phương Tây, trong xã hội hiện đại, nhiều đứa trẻ có thể nhớ rõ kiếp trước của chúng. Tương tự, ở phương Đông, có nhiều người cũng nhớ ra các kiếp trước của họ: nơi họ đã sinh sống, cách sống, gia đình, nơi chốn và những người khác.
09/02/2014(Xem: 5648)
Đạo Phật không phải là một tín ngưỡng tôi giáo cuồng tín. Đạo Phật là phương pháp sống mang đầy triết lý. Do vậy, để nghiên cứu đạo Phật, bạn không cần phải tin tưởng vào một điều gì đó xa với thực tế. Điều quan trọng là chính bản thân bạn phải tìm hiểu, nghiên cứu và thể nghiệm, chứ không phải chỉ dựa vào niềm tin.
08/02/2014(Xem: 5617)
Thường người ta có thái độ rất sai lầm về tâm nghi. Thay vì coi Nghi như con đường dẫn đến trí tuệ, họ coi đó là sai lầm, là điều không bao giờ nên xảy ra. Tâm nghi là cánh cửa trí tuệ, là lý do tại sao khoa học dựa trên nghi vấn và thí nghiệm đã rất tiến bộ,
05/02/2014(Xem: 20852)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
04/02/2014(Xem: 4645)
Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng..
01/02/2014(Xem: 10040)
Từ Trạch Pháp này rất quen thuộc trong Phật Giáo, nhưng đã có mấy người Phật tử chịu tìm hiểu tận tường. Do vậy, trong khóa tu Gieo Duyên cuối năm 2013 tại Tự Viện Pháp Bảo, Sydney, chúng tôi trong Ban Giáo Thọ phụ trách giảng giải chủ đề này trong ba buổi học để học viên nắm vững được đầy đủ hơn, ngõ hầu vui thích học pháp và như vậy mới dễ dàng cho việc ứng dụng giáo pháp vào đời sống thường nhật. Trạch pháp - chọn pháp – nói đủ là trạch pháp giác phần hay pháp giác ý. Dùng trí tuệ lựa chọn, phân biệt đúng sai, thật giả của các pháp để chọn chân bỏ giả thẳng hướng tới Bồ Đề, là một trong bảy pháp giác chi như lời Phật dạy.
01/02/2014(Xem: 8933)
Không gian vũ trụ mênh mông vô định hướng, nhưng không gian cũng chỉ là sự tích tập, buông xả mà thôi. Tích tập là duyên sinh tụ hội của vạn pháp, và buông xả là sự lặng thinh tuyệt đối của không gian vô định như thuở nào vô thủy vô chung. Cuộc sống con người cũng vậy, không phải từ lúc sinh ra cho
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]