Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi vào cõi thiền

31/07/201317:13(Xem: 6998)
Đi vào cõi thiền

hoa_sen (20)
ĐI VÀO CÕI THIỀN

Như Hùng

Thiền không phải điều huyễn luận được sáng tạo từ ý thức, hoặc từ những quái thai biến chứng của tư tưởng bị dồn kín, đè nén trong những tra vấn cùng quẩn. Tất cả những vũ đoán về thiền là một cái gì đều hoàn toàn sai lầm lạc lối, nếu dùng trí thức hoặc ý niệm cố hữu để thẩm định, ắt hẳn lạc xa nghìn trùng. Thiền vốn khước từ tất cả, dù đó là hệ thống tư tưởng vĩ đại, được dàn dựng công phu hoặc dùng kiến thức đa năng soi chiếu vẫn là điều phủ quyết, chối bỏ mãnh liệt nơi thiền. Thiền vượt ra ngoài thong dong trên tất cả mọi lối đi về, dù Thiền có một cái gì quái đản, vô lý, không chứng ngôn bằng ngôn từ suy nghiệm. Nó làm hoảng sợ, run rẫy không ít người bén mãng đến để khám phá về thiền. Nhưng tất cả tưởng chừng vô lý đó, nơi đâu không có bóng dáng của ý thức xen vào lũng đoạn? Và biết đâu những gì vô lý lại có lý? Trong thiền thuật ngữ nầy tràn ngập như một bí mật muôn đời còn phong kín.

Con đường khai dẫn thoát ly ra ngoài cạm bẫy thông nghiệm của ý thức, là vứt đi ý niệm tóm thâu vào khuôn khổ, hoặc xác quyết tùy theo tầm nhìn. Nếu không làm được điều này, thì muôn kiếp chẳng bao giờ có thể cảm nhận được Thiền. Những thái độ bảo thủ, năng động sẽ không bắt gặp sự tỉnh lặng, toàn triệt mà Thiền nhắm tới, là đạt sự vắng bặt ở nội tâm. Những đối lực và quan điểm sai biệt đã dàn trận liên tiếp, gây thống khổ đầy dẫy trong nhân loại, hễ còn vọng động thì còn phải bất an với chính những phá vỡ, đạp đổ do nó tác tạo. Lịch sử của triết học, của những hệ thống tư duy, ta đã thấy trong hiện tại là một chứng minh cụ thể. Nếu không phóng mình ra khỏi để quật tung, đánh thức nội tại, thì ta không bao giờ thoát ra ngoài lớp vỏ khô cứng, được cất giữ trong viện bảo tàng và ta sẽ không sống bằng điều gì ngoài thế giới thống khổ.

Thiền vốn là điều tươi mát liên tục tiềm ẩn trong mỗi chúng ta. Nếu biết cách khơi dậy, ta sẽ thong dong tự tại trong mọi suy tư hành hoạt, đó là bản thể tịch nhiên, không ồn ào phù phiếm, náo động, bất an, của những đuổi bắt níu kéo. Khi nào chưa quân bình hai đối cực, động và tịnh, hạnh phúc và khổ đau, thì muôn kiếp ta phải chôn mình trong sự phủ vây. Bởi lẽ nó hình thành do cái kia xô đẩy, xúi dục, chắc chắn một điều cả hai đều có mặt ngay trong từng biến hiện, hạnh phúc không ngoài khổ đau mà có, ở đấy chỉ cần gạt phăng những định kiến lầm tưởng, nhích mạnh tay then chốt cuối cùng bổng nhiên hiển lộ tràn đầy.

Con người luôn bám víu vô minh, vào những sai sử của ý thức, đây là phần năng động, tầm hoạt dụng và cơ cấu phiêu tưởng của nó, đã liên tục lừa dối đẩy ta rơi vào thống khổ, trôi lăn trong triền phược. Chưa đủ thỉnh thoảng trong ta vùng dậy một năng lực nào khác, thì nó lại tìm cách đánh lừa ta hơn. Vì thế muốn tựu thành công phu quật khai nội tại, trước hết ta phải trục xuất tên giặc ấy ra ngoài, dĩ nhiên sự trục xuất nầy không có nghĩa ta đưa nó trở thành tiêu điểm để chết sống mà hãy để nó tự do, ta chỉ việc bám theo bằng sự minh mẫn tỉnh thức là đủ. Bởi lẽ ta quyết không tạo ra ranh giới, rồi đưa giáo điều làm vũ lực tống khứ nó vào một chỗ, chắc chắn ta không làm được. Nếu vậy vô tình ta đã nhốt nó vào, chứ chưa có nghĩa chế phục, khi có cơ hội nó sẽ thoát ra và lúc ấy hậu quả không thể lường được.

Thiền vốn cởi tung ta thoát ra ngoài kinh viện, giáo điều, bảo thủ, vốn đã chôn ta chết ngộp trong ấy, hể đụng tới phải trả giá khủng khiếp, bằng cả cuộc đời. Điều này hoàn toàn vô nghĩa, với Thiền không ai có thể mặc cả, hoặc dùng bức màn trân quý tôn thờ, mà tất cả đều duyệt xét qua cửa ngõ của tâm, vén lên hay sụp xuống đều do ta quyết định, không ai có thể đưa ta xuống hoặc nâng ta lên, chỉ có chính ta chủ nhân của sinh tử và niết bàn, hạnh phúc và khổ đau.

Những tôn thờ phi lý ta hay bắt gặp, trong sự khủng hoảng tâm linh, hoặc nương vào uy quyền của kẻ khác để đè nén chế ngự, đây là việc làm vô ích. Bởi lẽ không ai có đủ thẩm quyền tác tạo thiên đường hoặc địa ngục, khi trong ta đầy dẫy triền phược, ngang trái. Không có sự cứu rỗi nào đưa ta thoát ra ngoài, nếu không khơi dậy con đường dấn thân, kham nhẫn, chịu trách nhiệm với chính ta. Ta không thể đổ lỗi cho bất cứ ai và cũng chẳng có ai gánh chịu cái lỗi mà ta đã làm, trừ khi ta tạm mượn giáo điều để ru ngủ mặc cảm tội lỗi.

Trong sự bất an thường trực của đời sống, sự khổ đau, sợ hãi đang đè nặng, trở thành hơi thở phủ vây trong từng suy nghĩ, cảm xúc và mọi hành hoạt trong chúng ta. Đâu đâu cũng tràn ngập những tiếng thở dài, rên rĩ, nhức nhối, hoặc dùng hình thức giả tạo nào đó, cố quên trong những cuộc mua vui, chính điều này tố giác sự có mặt thường trực của khổ đau. Thiền giải quyết được gì trong sự khủng hoảng, bế tắc ấy?

Điều tuyệt diệu nhất mà chân lý Thiền đã soi sáng, muốn phá vỡ khổ đau ta phải đối diện thường nghiệm trong từng phút giây, không nao núng sợ hãi, trốn chạy, dùng tất cả hùng lực đào sâu, đục khoét trong từng biến động, lật trái bộ mặt đích thực mà nó đã phủ kín, phong tỏa bằng hàng rào dày đặc của vô minh. Chính từ sự đối diện đó, ta mới có được năng lực, sống trọn vẹn vào những biến hiện và chuyển hoá thành chất liệu nuôi dưỡng thân tuệ mạng, và chỉ có con đường hành động tích cực này, mới giúp ta khám phá ra thực thể từ những xáo trộn trong đời sống. Sự khủng hoảng, nổi loạn của ý thức chuyển dịch theo từng phút giây, nó đã vén lên bức màn sự thật qua cánh cửa triền miên, thống hận, những kinh hoàng, than oán ấy giúp được gì cho chúng ta? Phải chăng đó là nổi khổ, khi không còn cách nào đè nén nó mới tuôn ra ngoài và đó, hậu quả tất nhiên của sự phong tỏa, kiềm hãm. Làm sao ta có thể an nhiên đón nhận nó trong sự cùng quẩn của tâm ý? Có phải bằng cách, khơi dậy tất cả những biến chứng chôn kín ở trong, bằng sự đập phá, nổi loạn, thê lương và tuyệt cùng? Để rồi đưa ra chiếu rọi bởi ánh sáng linh hiện của Thiền, soi thẳng vào tận cùng trạng huống, đập vỡ mọi so đo, toan tính, từ đó bùng lên thứ khác đó là ngộ. Khi điều này vụt khởi như tia chớp loé sáng, đẩy lùi bóng đêm, càn quét những phạm trù biến chứng đang đè nặng trong ta, bổng như tất cả đều vô nghĩa, do vì hướng ngoại, vọng khởi tạo nên. Con người khi nào chấm dứt bất an, là lúc phá vỡ giai tầng kiến trúc của ý thức, ngôn ngữ, quan niệm, những điều đó đã lôi kéo đưa ta rơi vào ảo tưởng và chết chìm trong quan cảm, nên muôn kiếp phải hãi hùng, quanh quẩn trong vòng liên kết tử sinh.

Khi nào ánh sáng của Thiền chưa chiếu rọi, thì lúc đó ta vẫn còn lang thang, đong đầy hành trang mộng tưởng phiền lụy. Con người sống là kẻ ấy không sống trong ảo ảnh của qúa khứ, chết chìm trong hiện tại, mờ mịt trong tương lai. Tất cả những suy tư, đều phải tư duy cho một điều, khi nào đạt được hạnh phúc thật sự là lúc uống cạn tất cả những đau khổ bằng định lực sung sướng an lạc.

Thiền khơi dậy con mắt huệ nhãn, đó là vùng khuất lấp đằng sau ý thức năng động, mà ta liên tục xử dụng trong từng sát na. Chỉ có lúc trực giác, tóm thâu tất cả trong sự cùng tuyệt kiến chiếu, chiêm nghiệm, suy tư tra vấn chính mình, ta mới đủ năng lực quật tung ranh giới giữa ta với cảnh, trong và ngoài, năng động và tỉnh lặng, bằng sự quán chiếu xuyên qua ánh sáng tuyệt luân của " kiến chiếu tự tánh" soi thấu, lúc ấy ta mới trông thấy đâu là sự thật của giác ngộ.

Giác ngộ không có nghĩa nào cả, duy nhất chỉ có một nghĩa là trông thấy vẹn toàn sự thể, bằng sự sống và thở một cách linh hiện trong tỉnh thức, ngoài điều này ra tất cả chỉ đóng khung giác ngộ trong tháp ngà của thế giới tỷ lượng, luận bàn huyễn niệm, đắm mình trong sự dong ruỗi, và đó, bức tường ngăn cách để tạo nên giác ngộ. Ngộ không phải chỗ cùng tuyệt của lịch trình ý thức, xuyên qua suy tư, bám theo từng ý tưởng, ngộ phủ quyết điều này, bởi lẽ còn bước qua tình tự, tức còn có tiêu điểm, năng sở, chủ khách, như thế sẽ gây trở ngại trong việc thấy tánh. Chặng đường này không có sự quyết đoán, ức hiếp của ý thức sai biệt. Ta phải vận dụng tất cả mọi cơ năng, đập nát và húc đầu vào đó, bằng khí lực bình sanh, bằng sự đào khoét liên tục, không ngơi nghỉ để giác ngộ vụt khởi và giác ngộ sẽ vụt khởi, khi tất cả đều phải đỗ ào ngã qụy, dù đó là một niệm vi tế. Thiền là sự chứng nghiệm từ nội tâm, chứ không phải kiến thức rút ra từ kinh điển giáo điều, hoặc những gì tựu nên từ ý thức sai biệt. Ta phải tỉnh thức minh mẫn trong việc trông thấy cửa ngõ cụ thể hai lối, trí thức năng động và trí tuệ của tâm linh chứng ngộ. Trí thức vốn là những gặt hái tra vấn từ kinh viện hoặc kinh nghiệm thuộc phạm vi sử học, tức thuộc về quá khứ, nó hoàn toàn không giúp đựơc gì cho chặng đường thực chứng nội tâm, ngay trong sát na hiện tại. Bởi lẽ hầu như từ đó ta tạm mượn sở học, kinh nghiệm tâm linh của kẻ khác để kích bác, khống chế, cuối cùng ta chỉ quanh quẩn trong kho tàng luận thuyết, rơi vào thành trì định kiến của ý thức. Làm sao ta có thể thoát ra ngoài lớp vỏ khô cứng, tẩm liệm, trá hình bằng một thứ siêu ngôn ngữ, với những biến chứng khởi đi từ tâm ý, nhưng hoàn toàn không do trí tuệ mang lại?

Trí tuệ vốn không nằm ở đấy, nó phủ trùm lên một khi trông thấy vẹn toàn những linh hiện từ vô thủy đến vô chung, từ khởi đầu đến chung cuộc, từng diễn biến nơi tâm thức. Từ đó vén lên bức màn sự thật, của thể tánh tuyệt diệu đang nằm sẵn ở trong ta, muốn có trí tuệ ta phải nổ lực dụng công, chiêm nghiệm để giác ngộ có cơ may vụt khởi.

Với thiền, tất cả những tựu thành xuyên qua tâm ý, dù giả lập ở bất cứ nơi đâu, không khéo sẽ sai lầm lạc lối. Khi nào sự hưng động kèm theo tỉnh thức toàn triệt, thì sự quật khởi của nó mới đủ công lực thay đổi khuôn mặt, theo nghĩa biến chất nhưng không gây chấn động nào, trừ khi sự chấn động ấy để bùng lên giác ngộ. Nếu dùng luận lý học, ngôn ngữ học để thẩm định trên bình diện nhận thức thuộc thế giới tỷ luợng, thì tất cả đều đóng khung và trở thành sản phẩm của ý thức. Thiền vốn lắc đầu, khước từ những gì còn đo lường, tức còn rơi vào sở tri chướng. Dĩ nhiên chủ trương của thiền không đối kháng, chống lại, vì lẽ thiền không phải là đối tượng được dựng lên từ quan niệm. Thiền nhắm đến giác ngộ, cởi tung những triền phược, khúc mắc, nhốt kín con người trong đó. Khi chống lại điều gì, tức còn đứng trên căn bản chấp trước, đối đãi, nhị nguyên, với thiền không có hai mà là một, và một ấy cũng biến mất, đây là lý lẽ của không lý lẽ, ngộ một cách toàn triệt về mọi thể tính.

Chân lý của thiền sẽ không bao giờ được tìm thấy trong kho tàng lưu trữ của ý thức, nếu dùng những suy tư để trang sức, phết tô cho ý niệm ngôn từ và càng không có nghĩa mò tìm trong kinh viện, hoặc đắm mình trong suy diễn, vốn không xuất phát từ sự thẩm định về những nguyên lý, cấu tạo thành sự hưng khởi. Truy tìm căn nguyên giá tri, tối hậu, chắc hẳn phải vượt lên những ngăn ngại, bao phủ bởi quan niệm, đồng nghĩa với bóng dáng giả hợp nào đó của ý thức. Sự đóng khung chôn dấu đó, dù được tựu thành, nhưng chưa duyệt qua quá trình thâm chứng, bằng cả sức mạnh tư duy, xoáy thẳng vào trọng tâm của yếu tính, không khéo trở nên phù phiếm vô nghĩa, những gì được cấu trúc từ những mô thức thông thường, suy gẫm để tìm thấy sự thâm kín đàng sau vẫn chưa đủ, nếu đó là điều tò mò của ý thức.

Trên căn bản đây là mấu ngoặc để thấy sự phủ mờ của lớp vỏ khô cứng từ trước, nhưng ở đối tính khác, nó hoàn toàn phản lại với chính nó, cũng có thể là điều không tưởng huyền hoặc, bởi lẽ chưa có một kiểm chứng tối thiểu nào, để xác quyết giá trị thật hữu, trong mọi lý lẽ chuyển dịch, nếu không dùng đến ý niệm. Dù đó, nguyên tắc tối cần mang ra mổ xẻ giải quyết, những yếu tính nào cấu thành từ ý lực vọng động và nếu không phải sự hưng khởi xuất phát từ vô phân nguyên vị, thì mấu chốt của vấn đề sẽ trở nên căng thẳng.

Quá trình tìm ra yếu tính tàng chứa ở mỗi chủng nghiệp, dĩ nhiên phải đi qua chặng đường góp nhặt nào đó của ý thức, cho dù phản lại hoặc đồng lõa nó vẫn dung chứa, tuy nhiên đây không phải vấn đề cần đặt lại, bởi lẽ những tác động, hình thành vốn ngầm chứa kết quả trong đó, tự nó đã tổng hợp, dệt nên theo từng hướng đi của ý thức. Điều quan yếu sự chuyển động, xê dịch phải ăn khớp với sự biến hóa ở nhịp độ chuyển tiếp, chân lý không phải là điều bất di bất dịch, nhưng đó là xác quyết trung thực về nguyên lý của những hiện tượng bất di bất dịch. Vì thế, thiền khơi dậy giá trị chân thật tuyệt hảo mà con người vốn đánh mất. Nó là toàn thể tính, phật tính, chân như, do vì những vọng niệm ngăn ngại, nên ta đẩy nó vào tận cùng, lấp kín bằng cửa ngõ của ý thức. Muốn vén mở chắc hẳn ta không nương vào thần quyền cứu rỗi, của bất cứ đấng toàn năng nào, bởi lẽ những đấng ấy bất lực trước những điều do ta tác tạo, ta đã phong kín cửa ngõ bằng lối nào, thì cũng chính ta mới có đủ công năng xoay chuyển theo lối ấy.

Dù vậy, vay mượn ngôn từ để diễn tả về thiền, là sự lạm dụng, gượng ép, ức hiếp ngữ ngôn, nhưng "không nói cũng không xong" như một câu nói bất hủ, chìm khuất trong vô cùng của Thiên Sư Chân Nguyên ở thế kỷ thứ 17, chỉ còn lại nét chấm phá lững lơ, như chính cái lơ lững nào đó trong Thiền.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/09/2020(Xem: 5042)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6326)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 7105)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4131)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4197)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 11981)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 7313)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
29/08/2019(Xem: 10823)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
26/08/2019(Xem: 4907)
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật. Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường 2/Chư Pháp Vô Ngã 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
07/07/2019(Xem: 5622)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567