Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Diện kiến lạt ma Tây Tạng

23/11/201204:48(Xem: 4956)
04. Diện kiến lạt ma Tây Tạng

Đường lên Tây Tạng

Nguyễn Tập

Kỳ 4:
Diện kiến lạt ma Tây Tạng

TT - Năm 1357, tại một vùng hẻo lánh thuộc cao nguyên Thanh Tạng cách Tây Ninh - thủ phủ của Thanh Hải - chừng 30km, cậu bé Tông Khách Ba (Tsong-Kha-Pa) ra đời. Ông chính là người xây dựng Phật giáo Tây Tạng: sáng lập tông phái Hoàng Mạo (mũ vàng) - là tông phái của Đạt Lai lạt ma và Ban Thiền lạt ma ngày nay. Đến Tây Tạng, làm sao có thể bỏ lỡ dịp đến Tháp Nhĩ tự - nơi sinh của đại sư Tông Khách Ba…

Tháp Nhĩ tự

Nằm dựa trên sườn đồi, Tháp Nhĩ tự (lấy từ tên của một ngọn tháp nằm trong chùa được dát bằng 1 tấn bạc, 3.000 lượng vàng và 3.600 viên mã não) xây dựng lần đầu từ năm 1379, sau đó được trùng tu, xây dựng thêm và trở thành một trong sáu chùa lớn nhất của phái Hoàng Mạo (tông phái Phật giáo phổ biến nhất ở Tây Tạng).

Nơi đây cũng từng là nơi sống và làm việc của Ban Thiền lạt ma. (Theo truyền thuyết, Ban Thiền lạt ma là hiện thân của Phật A di đà, là người đứng đầu trong cuộc sống tinh thần của người dân Tây Tạng. Đạt Lai lạt ma là hiện thân của Quán Thế Âm bồ tát, là người đứng đầu Phật giáo Tây Tạng trong cuộc sống thế tục. Mỗi vị chết đi, người ta tìm vị tái sinh khác để kế vị).

Lớn nhất tại Tháp Nhĩ tự là Đại Kinh đường (2.000m2) được chống bởi 168 cột lớn, tại đây lưu giữ rất nhiều kinh Phật từ thời nhà Đường đến nay. Kế bên là một dãy kệ với 1.000 ngăn, mỗi ngăn thờ một vị Phật, đây cũng chính là nơi thờ các vị Đạt Lai lạt ma và đại sư Tông Khách Ba.

duonglentaytang-06

Lạt ma Tây Tạng

ImageView
Một tòa tháp tại Tháp Nhĩ tự. Năm 1990, một trận động đất đã phá hủy rất nhiều công trình tại đây. Chính phủ Trung Quốc đã chi 70 triệu nhân dân tệ cho dự án khôi phục này. (TheoLonely Planet)

Các tháp, đền thờ Tây Tạng thường có năm phần tượng trưng cho năm yếu tố xây dựng nên vũ trụ.

Phần dưới cùng tượng trưng cho đất: bền vững, ổn định.

Kế là hình cầu (hình bán cầu) tượng trưng cho nước: sự luân chuyển.

Trên nữa là hình nón cụt tượng trưng cho lửa.

Kế tiếp là hình đĩa tròn tượng trưng cho gió hay không gian.

Nằm trên cùng là thức. Thức là một chấm nhỏ chứa đựng tất cả nhưng không có kích thước cụ thể vì nó là “giao điểm” của vật chất và tâm linh.

Có ba tác phẩm nghệ thuật đặc biệt đáng chú ý tại Tháp Nhĩ tự đó là nghệ thuật tạc tượng bằng bơ (làm từ sữa con bò yak) cực kỳ sống động, miêu tả lại lúc đức Phật sinh ra và nghệ thuật vẽ, thêu trên lụa, vải rất tinh xảo, không bao giờ phai màu theo thời gian.

Dọc hành lang quanh chùa có rất nhiều pháp luân chung (chuông chuyển kinh) bằng đồng, gỗ (như một thùng rỗng quay trên một trục đứng). Những cái chuông không phải để gõ mà để... xoay, vừa xoay vừa niệm chú: “Om mani padme hum” (úm ma ni bát mê hồng).

Người Tây Tạng tin rằng âm thanh hòa cùng với sự vận chuyển của chuông chuyển kinh sẽ tạo ra một “sức mạnh” huyền bí cầu chúc bình an, may mắn. Vì thế các bánh xe đó ít khi dừng lại, bởi các vị lạt ma, chú tiểu, du khách... cứ đi ngang là quay vì ai chẳng mong những điều tốt lành sẽ đến với mình và mọi người!

Nếu như trước các tượng Phật ở các chùa chiền thường đặt những lư hương để thắp nhang thì chùa Tây Tạng lại đặt những “chậu” đèn thật lớn được đốt bằng bơ (hoặc mỡ bò yak). Lễ vật của những người hành hương là một chút bơ để duy trì ánh lửa cho ngọn đèn mãi mãi không tắt.

Lạt ma và những người Tây Tạng hành hương

Từ khá xa trước khi đến Tháp Nhĩ tự tôi đã thấy từng đoàn người Tây Tạng hành hương áo quần lam lũ, mang theo áo quần đồ đạc, dắt theo cả gia đình vợ con. Đi vài bước họ lại chắp tay khỏi đầu, trán, cằm, ngực vái lạy rồi rạp sát mặt đất rất thành kính. Đây là phương thức cầu nguyện rất phổ biến của người Tây Tạng: phương thức “ngũ thể đầu địa” (hai tay, hai chân và trán phải chạm đất).

Hình ảnh này nhắc người ta nhớ đến vị thánh tăng Hư Vân (1840-1959) mà theo sách sử cho biết ngài đã thực hiện chuyến hành trình tam bộ nhất bái (ba bước một lạy) từ Phổ Đà sơn về Ngũ Đài sơn với đường dài trên 2.500km.

Trong chương trình Discovery cũng đã từng quay một đoạn phim có thật về một thanh niên Tây Tạng đi suốt mấy tháng trời đến núi Thiêng (đỉnh Ngân Sơn trong dãy Himalaya - thế giới của các vị Phật theo quan niệm của người Tây Tạng), cứ vài bước lại nằm rạp xuống lạy theo phương thức ngũ thể đầu địa để cầu siêu cho mẹ.

Đối với người Tây Tạng, hiện tại chỉ là cuộc sống tạm, rất phù phiếm. Họ tin vào vòng luân hồi của cuộc đời. Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng) để nhắc nhở rằng cuộc đời là một vòng miên viễn. Tôn giáo là nền tảng cơ bản để người Tây Tạng tồn tại.

Chính vì thế, không có gì ngạc nhiên khi bạn thấy rất nhiều ông bà già Tây Tạng da nhăn nheo, chống gậy lụm cụm leo lên từng bậc thang, lần xuống từng góc chùa để được đảnh lễ, được xoay các pháp luân chung ấy.

duonglentaytang-07

Những người Tây Tạng từ khắp nơi trên cao nguyên Thanh Tạng hành hương về chùa

Những ngày đầu đông, gần như rất ít du khách đến đây. Trong nắng sớm, một vị lạt ma choàng áo đỏ phủ kín đầu đang lâm râm tụng kinh, thỉnh thoảng lại dùng chiếc dùi mảnh như cần câu gõ vào cái trống. Ánh nắng tràn qua mái chùa, phủ lên mình vị lạt ma một vẻ đẹp kỳ ảo! Theo phản xạ, tôi rút máy ảnh định chụp nhưng chợt rụt lại khi thấy tấm bảng “no photo, no video”.

Hơi buồn một tí, nhưng ngẫm lại thấy vậy mà hay. Sự tò mò, muốn ghi dấu một kỷ niệm của các du khách khi chụp hình hẳn sẽ khuấy động không khí trang nghiêm, tĩnh lặng của chùa và biết đâu điều đó còn vô tình cắt ngang dòng triền miên suy tưởng của vị chân tu? Trời lạnh, tuyết bay lất phất, chúng tôi đứng im lặng, thả hồn vào tiếng trống gõ nhịp, tiếng tụng kinh rì rầm ê a như một bài nhạc không có điểm dừng.

Bao quanh Tháp Nhĩ tự là các cơ sở kinh doanh của người Hán, là những gian hàng, nhà trọ với giá cao... Cạnh đó có những “anh lạt ma” (nét mặt khác hẳn với những nét đặc trưng của người dân Tây Tạng) mặc đồ tu nhưng chân đi giày hiệu thứ xịn, tay cầm điện thoại di động đời mới. Thậm chí “anh lạt ma” ngồi tại phòng vé vẫn đánh bài rất say sưa.

Sau khi bán vé cho chúng tôi, anh vội vã tiếp tục canh bạc một cách hào hứng. Họ có thật sự là những lạt ma Tây Tạng? Nhưng còn có một hình ảnh khác: những người Tây Tạng khốn khó, áo quần rách bươm lặn lội từ khắp nẻo trên cao nguyên Thanh Tạng về đây. Từ rất xa, họ đã hướng về phía ngôi chùa để đảnh lễ rất thành kính.

Dường như trong mắt họ, dãy ôtô đời mới bóng loáng, bên cạnh thế giới mua bán ồn ào... - đang chắn ngang trước cổng chùa tôn nghiêm - không hề tồn tại, chẳng đáng cho họ để tâm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2015(Xem: 9521)
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu tự hỏi tại sao bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung, Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó.
24/05/2015(Xem: 11614)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
20/03/2015(Xem: 7564)
Đạo Phật là đạo từ bi vì thế là người con Phật, chúng ta phải tu tâm từ bi, trưởng dưỡng tâm từ bi trong cuộc sống mỗi ngày vì tâm từ là cội nguồn của mọi thiện nghiệp, là Phật tánh của chúng sanh. Điều này được Đức Phật thuyết trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai [1, tr.520].
25/02/2015(Xem: 9243)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 14535)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 6183)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5703)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 5012)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9714)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5613)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]