Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vua trời Đế Thích tham kiến Phật

14/11/201206:11(Xem: 3855)
Vua trời Đế Thích tham kiến Phật

VUA TRỜI ĐẾ THÍCH THAM KIẾN PHẬT
Toàn Không


dethichthamkienPhat-toankhongKhi đức Phật ngự trong động Nhẫn-Đà Bà-La, tại núi Tà-đà, thuộc nước Ma-kiệt-Đà, bấy giờ Vua Trời Thích (Đế-Thiên Đế-Thích, cũng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế) khởi tâm muốn đến gặp Phật. Ngay khi ấy, các vị Trời cõi Đạo-Lợi biết được Đế-Thích khởi tâm như thế, liền đến chỗ Đế-Thích thưa :

- Nay Ngài khởi tâm thiện vi diệu muốn đến chỗ Như-Lai nơi cõi trần phàm, chúng tôi cũng muốn theo hầu, để được đến mà chiêm bái và học hỏi nơi Thế-Tôn.

Lúc đó Đế-Thích bảo Thần-nhạc là Bàn-giá-Dực rằng:

- Ta muốn đến nơi Thế-Tôn ngự, vậy ông và chư Thiên có thể đi cùng ta đến đó.

Thần nhạc đáp:

- Thưa vâng.

Rồi Thần nhạc cầm cây đàn Lưu-ly khảy khúc đàn cúng dàng Đế-Thích và chư Thiên. Tiếng đàn vừa dứt, chỉ trong khoảnh khắc như người lực sĩ duỗi cánh tay, họ biến mất khỏi Thiện Pháp-đường cõi Trời và đến trên núi Tỳ-Đà.

Trong khi ấy, đức Phật đang nhập định Hỏa-diệm tam-Muội, khiến cả vùng núi có một màu đỏ rực; một vài người dân trong vùng gần đấy trông thấy tự nói: “Núi Tỳ-Bà là một biển lửa ! Không biết chuyện gì đã xẩy ra mà đang đêm cháy như thế?”.Đế-Thích bảo Bàn-già-Dực:

- Đức Như-Lai ra đời thật hy hữu hiếm có, Ngài thường được các chư Thiên và đại Qủy-Thần theo hầu. Nay ông hãy vào động Nhẫn-Đà Bà-Là khảy đàn cúng dàng Như-Lai, còn ta và chư Thiên sẽ đến sau.

Vâng lời Đế-Thích, Bàn-già-Dực liền vào động khảy khúc đàn hòa với tiếng ca cúng dàng Như-Lai, tiếng đàn trầm bổng, xen với tiếng hát ca tụng công đức vô lượng vô biên của Như-Lai; khi đàn hát vừa dứt, thì đức Phật xuất định, và bảo Bàn-già-Dực:

- Hay thay! Hay thay! Ông có thể dùng âm thanh thanh tịnh hòa điệu với tiếng đàn Lưu-ly để khen ngợi Như-Lai; giọng ca, tiếng đàn uyển chuyển, trầm bổng, mà có ý nghiã tham dục là trói buộc, phạm hạnh của Sa-môn đưa đến giải thoát.

Lúc đó Bàn-già-Dực liền đảnh lễ Phật, xong thưa:

- Vua Trời Thích và chư vị Trời Đạo-Lợi sai con đến thăm hỏi đức Thế-Tôn có được mạnh khoẻ không, đi đứng có được thoải mái không?

Đức Phật nói :

- Ta mong cho Đế-Thích của ông, và Chư Thiên Đạo-Lợi sống lâu, an vui, và không hoạn nạn.

Lúc ấy, Đế-Thích tự nghĩ: “Bây giờ chúng ta nên đến ra mắt Như-Lai cho đúng lúc”.Nghĩ rồi cùng Chư Thiên vào động đảnh lễ và thưa:

- Đế-Thích và Chư Thiên Đạo-Lợi đến đảnh lễ Như-Lai, không biết chúng con nên ngồi gần hay nên đứng cách xa đức Thế-Tôn?

Phật đáp:

- Thiên chúng của ông quá đông, vậy nên ngồi gần Như-Lai.

Lúc đó động đang chật hẹp tự nhiên rộng hẳn ra, chứa hết chư Thiên, và chỉ trong khoảnh khắc tất cả đã an vị xong, Đế-Thích nói:

- Trước kia, có một lần Thế-Tôn ngự tại nước Xá-Vệ, lúc ấy trong khi Ngài đang nhập định, con vì có chút việc nên ngồi xe báu nghìn căm đến chỗ Tỳ-lâu-Lặc Thiên-Vương. Khi đi ngang qua hư không, con thấy một Thiên nữ đang chắp tay đứng trước Thế-Tôn, con liền nói với nàng ấy rằng: “Nếu khi Thế-Tôn xuất định, nàng hãy nhân danh ta thăm hỏi đức Thế-Tôn có được mạnh khoẻ thoải mái không?”.Nhưng không biết Thiên-nữ ấy có hiểu được hậu ý của con không, đồng thời Thế-Tôn có còn nhớ sự việc ấy không?

Phật đáp:

- Nhớ, Thiên-nữ ấy đã nhân danh ông mà nói đúng như những lời ấy, và khi Ta xuất định cũng nghe tiếng xe của ông.

Đế-Thích lại nói:

- Thuở xưa có một Thiên chúng nói: “Nếu Như-Lai xuất hiện ở thế-gian, Thiên chúng các cõi Trời sẽ tăng lên, và A-Tu-La (Thần) sẽ giảm bớt vì do sự giáo hóa của Như-Lai”. Nay đích thân con thấy Như-Lai đang ở thế-gian, thì tự con biết rằng Chư Thiên đang tăng lên, và A-Tu-La đang giảm xuống, đó là điều vô cùng vui mừng thấy được Thế-Tôn nơi đây.

Ca tụng Phật xong, Đế-Thích nói tiếp:

- Thưa Thế-Tôn, có Thích-nữ Cù-Di ở nơi Pháp của Thế-Tôn trước đây tu phạm-hạnh, sau khi qua đời ở thế-gian, được sinh về cõi Trời và làm con của con; Chư Thiên đều khen ngợi Thiên-nữ Cù-Di có công đức lớn, có oai lực lớn. Lại có ba Tỳ-kheo cũng theo Thế-Tôn tu phạm hạnh trước kia, cũng được sinh lên cõi Trời, nhưng lại ở địa vị thấp kém hơn, làm kẻ đánh nhạc ca hát cho con.

Nói đến đó, Đế-Thích lại thưa tiếp:

- Nếu Thế-Tôn có rảnh, xin Ngài cho con hỏi một điều thắc mắc.

Phật nói:

- Tùy ý ông cứ hỏi, Ta sẽ tùy từng trường hợp mà giải thích cho.

Đế-Thích hỏi:

- Thế nào là cứu cánh của một vị tu hành?

Đức Phật giảng:

- Nếu ai bị ái làm khổ thân mà diệt được thì gọi là cứu cánh, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh an ổn, cứu cánh vô dư (Niết-Bàn).

Đế-Thích thưa:

- Con đã ôm ấp mối nghi này từ lâu, nay nhờ Thế-Tôn mà con được giải nghi. Con còn nhớ ngày xưa con đã từng đến nơi Bà-la-Môn để hỏi về nghiã này rồi, vì trước đó, con cùng chư Thiên đã nhiều lần thảo luân về Như-Lai đã xuất hiện ở thế-gian này hay chưa. Chúng con cũng đã đi tìm kiếm khắp, nhưng không thấy Như-Lai, nên chúng con trở về Thiên cung vui thú ngũ dục.

Về sau, con thấy một số chư Thiên, đại Thiên-Thần sau khi vui thú ngũ dục thì dần dần lần lượt mạng chung (chết). Thấy như thế xong, con đâm ra sợ hãi cùng cực, không biết làm sao, con bèn hội họp chư Thiên lại thảo luận để tìm nguyên nhân, nhưng chẳng ai biết được! Con bèn đi tìm những vị Thánh ở thế-gian để hỏi, con thấy Sa-môn, Bà-la-Môn ở nơi thanh vắng tu hành lánh tục, con liền đến chỗ ấy mà hỏi: “Thế nào là cứu cánh của một vị tu hành ?”. Khi con hỏi như thế, người ấy không đáp được, đâm ra lúng túng, lại còn hỏi ngược lại con: “Ông là ai?”Con đáp: “Tôi là Thích-đề-hoàn-nhân”.Họ lại hỏi: “Ông là Thích, mà là Thích gì?”. Con lại đáp: “Tôi là Vua Trời Thích (Thiên Đế-Thích)”. Khi đó, con và họ cứ theo sự hiểu biết của mình mà nói qua nói lại một hồi, kết quả chẳng đi đến đâu. Xong, họ lại tự nguyện xin làm đệ-tử của con! Do đó sự thắc mắc ấy vẫn giữ mãi trong tâm cho tới nay mới được Thế-Tôn giải mối nghi to lớn của con.

Thưa Thế-Tôn, nay con là Phật-tử, đã chứng quả thứ nhất Tu-đà-hoàn. Cúi xin Thế-Tôn thọ ký cho con sẽ chứng quả thứ hai Tư-đà-hàm.

Phật bảo Đế-Thích:

- Ông còn nhớ khi được hỷ lạc (sung sướng vui vẻ) và niệm lạc (ý nghĩ vui sướng) không?

- Thưa Thế-Tôn, con còn nhớ ngày xưa, con và chư Thiên đã cùng A-Tu-La đánh nhau, chúng con thắng , A-Tu-La bại. Khi trở về ca khúc khải hoàn thật là sung sướng vui vẻ vô cùng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự vui vẻ sung sướng trên chiến tranh, chửi lộn, đánh nhau, dùng mưu kế đánh đập, hành hạ, giết chóc.

Nay con ở nơi Phật ngự được thoải mái, vui vẻ, không có binh giáp chiến tranh, không có đánh đập giết chóc, mà trí tuệ lại được mở mang.

- Vậy ông ở trong sự hỷ lạc (vui sướng) này còn mong cầu điều gì nữa?

- Con mong cầu được tăng tuổi thọ, sau này qua đời khi tái sinh không còn lo buồn. Con lại biết nói chính đạo, nhớ tu phạm hạnh, và thấy được chân-đế (chân lý).

Thưa Phật tới đó, Đế-Thích xoay qua nói với chư Thiên:

- Chư Thiên, các ông ở trước Phạm-Đồng-Tử (Phạm Thiên Vương) cung kính lễ bái, nay ở trước Thế-Tôn các ông cung kính lễ bái, như vậy thì không đẹp lắm sao?

Khi Đế-Thích vừa nói dứt lời, Phạm Đồng-Tử bỗng nhiên xuất hiện giữa hư không bên trên chúng Thiên, đồng thời hướng về Đế-Thích nói kệ:

Thiên-Vương hạnh thanh tịnh,

Nhiều lợi ích chúng-sanh,

Ma-Kiệt, Đế-Thích chủ,

Hay hỏi nghĩa Như-Lai.

Phạm Đồng-Tử vừa nói kệ xong, bỗng nhiên biến mất; rồi Đế-Thích đứng lên đảnh lễ Phật, Chư Thiên, Bàn-già-Dực cùng đứng lên đồng loạt đảnh lễ Phật, rồi tất cả đều biến mất khỏi chỗ Phật chỉ trong chớp mắt.

Đế-Thích đi trước, xoay lại nói với Bàn-già-Dực:

- Hay thay, ông có thể ở trước Như-Lai khảy đàn ca hát vui vẻ cúng dàng, sau đó ta và Chư Thiên đến sau; nay ta bổ nhiệm ông vào chức vị của cha ông là bậc tối thượng cuả hàng Càn-thát-Bà (Nhạc Thần), đồng thời sẽ gả Bạt-Đà Càn-Thát Vương-nữ cho ông làm vợ.

Bàn-già-Dực thưa:

- Xin đa tạ Thiên-Vương, kính chúc Thiên-Vương vạn vạn tuế.,.

Toàn Không


Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/08/2010(Xem: 5430)
"Niệm Phật, niệm Pháp niệm tăng, nhằm tự nhắc nhở mình, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, tâm luân hướng thượng. Khi nhớ nghĩ đến ba điều cao thượng trên, các tâm lý bất thiện như tham, sân, si không có cơ hội phát sinh,các ý niệm thuần thiện sanh khởi,hiện tại sống an lành, chân chánh." (Kinh Trung Bộ).
28/08/2010(Xem: 4776)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
27/08/2010(Xem: 9259)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
24/07/2010(Xem: 3457)
Khổ đau hay hạnh phúc đều là những hậu quả tất yếu mà những hành động trước đó chúng ta đã tạo ra; dù là đồng thời hay dị thời đi nữa, thì chúng cũng bị lệ thuộc vào sự chi phối của luật tắt Nhân quả đứng về mặt hiện tượng.
22/07/2010(Xem: 11904)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
11/07/2010(Xem: 9805)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
02/07/2010(Xem: 4765)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện. Tôi có mặt ở đây là nhờ cha mẹ tôi đã lấy nhau, nhờ gia đình nuôi dưỡng
01/07/2010(Xem: 5179)
Vô thường, phụ thuộc vào sự biến đổi, là tính chất của các pháp hữu vi. Hãy tinh tấn”. Đó chính là lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật Cồ-đàm đối với hàng đệ tử của Ngài. Và khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, Trời Đế Thích than rằng:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567