Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn về giáo huấn những giai trình giác ngộ

27/02/201217:30(Xem: 3159)
Đức Đạt Lai Lạt Ma hướng dẫn về giáo huấn những giai trình giác ngộ
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
HƯỚNG DẪN VỀ GIÁO HUẤN NHỮNG GIAI TRÌNH GIÁC NGỘ
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Dharamsala, India, March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/02/2012

365dalailama_dailyadvicefromheart

Những Giai Trình Giác Ngộ[1]và Bốn Chân Lý Cao Quý

BERZIN: Cách tốt nhất để giảngdạy Những Giai Trình Giác Ngộ ở Đông Âu là thế nào? Đức Thánh Thiện đã đề nghị trong Nghi Lễ ĐạoSư, Cúng Dường Đạo Sư, hay Lama Chopa, phạm vi bắt đầu với bốn chân lý cao quývà giai đoạn giữa. Ngài có thể chi tiếtvề điều này không? Cũng thế, lời khuyênbảo của ngài là gì với điều gọi là sự "Sùng Tín Đạo Sư[2]"và những sự thực tập khởi đầu. Nhữngngười trong thế giới chuyên chế không thể trưng bày những hình ảnh của Đức Phậthay dâng cúng nước trên bàn thờ, vì nó rất đáng nghi ngờ.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôinghĩ không chỉ trong thế giới cộng sản mà trong những nơi khác cũng thế, tốtnhất là bắt đầu với Bốn Chân Lý Cao Quý.

Một cách căn bản, chúngta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sựgiải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự khỏi đaukhổ. Mục tiêu của sự giải thoát tạm thờiđáp ứng cho trình độ khởi đầu trong động cơ của Con Đường Tiệm TiếnLamrim. Mục tiêu cho sự giải thoát thậtsự - hoặc là giải thoát khỏi vòng luânhồi hay việc đạt đến giác ngộ hoàn toàn - đáp ứng đến nguyện vọng của trình độ bậc trung (giải thoát) và trình độbậc thượng (giác ngộ)].

Mục Tiêu Giải thoát Tạm Thời

Trên trình độ thứ nhất:

1- Từ việc tích lũynghiệp chướng từ dính mắc và sân giận, chúng ta xây dựng nên nghiệp nhân khôngphước đức. Điều này làm cho phải táisinh trong những tình trạng tệ hại đủ loại.Sự khổ đau của ba cõi khổ [những chúng sinh bị giam hãm trong thế giớikhông có niềm vui (địa ngục), quỷ đói và súc sinh] là sự thảo luận về những vấnnạn ở đây (Khổ đế).

2- Nguyên nhân của điềuấy là thái độ tàn phá, căn cứ trên sự bất giác (si mê) của của hành trạng nhânquả (nghiệp). Giải thích như nguyên nhânthật sự của khổ đau (tập đế).

3- Bước khởi đầu choviệc giải thoát chính chúng ta khỏi việc tái sinh vào những tình trạng tệ hạilà nguyện ước giải thoát khỏi sự khổ đauấy. Giải thích như loại giải thoát [nhưsự chấm dứt thật sự (diệt đế).

4- Những gì được hoànthành điều này là đạo đức tự giác của việc ngăn ngừa khỏi mười điều tàn phá(mười bất thiện nghiệp) - (đạo đế).Được giải thích như những con đường thật sự. Đây là bao hàm của bốn chân lý cao quý.

Nói cách khác, điều thứnhất cho cấu trúc của chính bốn chân lý cao quý. Rồi thì, trong cấu trúc bốn tầng ấy, trêntrình độ thứ nhất [đáp ứng đến mục tiêu của giai đoạn khởi đầu của Con ĐườngTiệm Tiến Lamrim], trong đặc trưng đầu tiên chúng ta có thể khẳng định những tái sinh tệ hại như cănbản. Vì thế, khổ đế giải thích khổ đaucủa những tình trạng tệ hại. Rồithì lấy việc đạt được hạnh phúc và anlạc thật sự của những tình trạng tái sinh khá hơn như những thí dụ của một loạigiải thoát. Điều này có thể được quảquyết như sự giải thoát, việc biến thành hiện thực cho việc giải thoát khỏi khổđau ấy, có thể chứ? Nó giống như sự giảithoát tạm thời. Rồi thì, việc hướng đếncon đường cho việc giải thoát khỏi những nguyên nhân cho sự khổ đau này [đượcgọi là những hành động tiêu cực], hai quy luật quan tâm đến nguyên nhân và hiệuquả liên hệ đến việc quan tâm khổ sở của đớn đau. [Quan tâm đến những nguyên nhân của khổ sởđớn đau trong những tình trạng tái sinh tệ hại,] từ một nguyên nhân nhỏ có thểđưa đến một kết quả lớn, và nếu tiến hành một hành động, nó sẽ không vô hiệu[hay không hậu quả gi]. Thái độ tàn phácuối cùng sẽ đưa đến việc trải nghiệm khổ đau, ngoại trừ chúng ta tự tịnh hóanghiệp nhân của nó sau đó.] Điều này đưađến phía tịnh hóa của Bốn Chân Lý Cao Quý, việc phân rẻ khỏi nổi khổ sở của đớnđau và nguyên nhân của nó, và con đường của việc đạt đến điều ấy. Trong cách này, chúng ta thấu hiểu bốn chânlý cao quý, có phải thế không? Vấn đềchính nhấn mạnh khi giáo huấn con đường tiệm tiến lamrim, trong trường hợp ấy,là bốn chân lý cao quý và nguyện ước cho việc giải thoát.

Rồi thì, trên tất cả, làquy y. Đấy là tuyệt diệu nhất, có phảikhông? Bằng khác đi, nếu chúng ta khôngnhận ra điểm trọng tâm của Giáo lý trong dạng thức của bốn chân lý cao quý, thìtrong trường hợp ấy điều gì chúng ta giải thích như là vấn đề quan trọng nhấtcủa việc tái sinh hoàn toàn rõ ràng?[Không có phạm vi của bốn chân lý cao quý,] nếu chúng ta nghĩ về việctái sinh quý báu của con người, nếu chúng ta chỉ kết luận rằng thân người làquan trọng, điều ấy không thuyết phục cho lắm.

Truyền thống Sakya, conđường và những kết quả của nó (lamdray) được cấu trúc như thế này, với bốn chânlý cao quý trong tâm. Đầu tiên, chúng tacần nghĩ về khổ đau, và duy chỉ trường hợp về việc tái sinh thân người hoàntoàn rõ ràng. Điều này, tôi nghĩ là rấttốt. Đức Phật nói cho cùng, trước nhấtdạy về bốn chân lý cao quý. Giống nhưthế, chúng ta có thể tiến hành một cách dễ dàng trong con đường mà những trìnhđộ bậc trung (giải thoát) và bậc thượng (giác ngộ) của lamrim thích hợp trongcấu trúc của bốn chân lý cao quý để đạt đến sự giải thoát thật sự.

[For further detail,see: Lam-rim Structured According to theFour Noble Truths.]

Tha Thiết cho Giải Thoát Thật Sự

BERZIN: Lưu tâm đến điểm Đức Thánh Thiện cũng nhấnmạnh đến giai đoạn bậc trung ngay từ lúc khởi đầu, có phải điều này liên hệ đếnviệc đặt nhấn mạnh trên những cảm xúc và thái độ phiền não và trên sự giảithích về tâm thức chứ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, điều này là tốt nhất. Nếu trước đấy, chúng ta không đạt được mộtniềm tin vững vàng thật sự rằng giải thoát là có thể đạt được, thế thì Pháp bảosẽ không phát sinh gì cả. [Nói cáchkhác, chúng ta cần niềm tin chắc rằng các cảm xúc và thái độ phiền não (khổ đếvà tập đế) đang lướt qua như phù du, rằng tâm thức là thanh tịnh bản nhiên (bảnchất ngừng dứt chân thật, tự tính thanh tịnh niết bàn) và vì thế có thể loạitrừ những cảm xúc và thái độ phiền não vĩnh viễn (đạt đến những sự chấm dứtthật sự (diệt đế) qua những con đường chân thật (đạo đế))

Xa hơn, [liên hệ đến bậcthượng,] sẽ hữu ích nếu giải thích một ít về từ ái, bi mẫn và tâm bồ đề. Cho dù người ta có chấp nhận có đời sống quákhứ hay không hay có sự giải thoát khỏi sự tái sinh không thể kiểm soát hay không, nhưng trong cuộc sống này thậtquan trọng để là một người đáng yêu, sống hòa hiệp với người khác.

[See: "Dharma-Lite" Versus"The Real Thing" Dharma.]

Rồi thì , thật tốt đẹpđể nghĩ về bốn vô lượng tâm - nguyện ước rằng tất cả chúng sinh được tự do khỏikhổ đau, được phú cho hạnh phúc, tự do khỏi tất cả những nguyên nhân của khổđau, và không bị cách ly khỏi hạnh phúc.Tiếp theo giái thích những thái độ bình đẳng và hoán chuyển mình vớingười khác. Nói cách khác, tự yêu mến làcánh cửa cho tất cả mọi rắc rối, yêu mến người khác là căn bản cho tất cả mọiphẩm chất tốt đẹp, và, khi chúng ta đạt được sự thực chứng của hai điều ấy, hãytự sử dụng để làm lợi ích cho xã hội.

[See: Exchanging and Equalizing One’sAttitudes about Self and Others.

Vị Trí của sự " Sùng Tín Đạo Sư" trongCon Đường Tiệm Tiến Lamrim

BERZIN: Có bất cứ cần thiết nào để đề cập đến sựtrung tín với đạo sư không? Họ không có những đạo sư.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Khi chúng ta quy y, sự quy y thực sự là nhữngtrân bảo của Đạo Phật (diệt đế và đạo đế). Để có Pháp bảo trên sự tương tục tinh thần của chúng ta, chúng ta cầnnhững phương pháp cho việc phát sinh trong tâm thức chúng ta và chúng ta cần aiđấy biểu thị qua những giải thích vàgương mẫu cá nhân những gì thật sự là Pháp bảo. Chúng ta cũng cần thiện hữu tri thức, Tăng già, được gọi là những ngườiở trong tiến trình hiện thực Pháp bảo một cách thích đáng và đã đạt được thànhcông trên một trình độ nào đó.

[See: Identifying the Objects of SafeDirection (Refuge).]

Như thế đấy rồi thì khichúng ta hỏi, ai là người biểu thị Pháp bảo ngoại trừ vị đạo sư, chúng ta thấytrong từ ngữ Tây Tạng chữ người biểu thị là tenpa cũng là một chữ dành cho vịthầy. Không có vị thầy biểu thị Phápbảo, chúng ta sẽ không thể thực tập. Giống như thế này, chúng ta đi đến đạo sư.

Không nhất thiết, vàkhông có điểm nào, cần phải nói về đạo sư và vấn đề liên hệ đến một người đượcgiải thích trong truyền thống Những Giai Trình Giác Ngộ. Chỉ nói đến trình độ đơn giản. Bởi vì người giảng dạy cho chúng ta là quantrọng, giáo huấn thảo luận về những phẩm chất vị ấy. Rồi thì, cũng tốt thôi để giải thích về nhữngphẩm chất của một vị thầy tâm linh phù hợp với những trình độ khác nhau của vịthầy, như được giải thích trong luật tạng, kinh điển Đại thừa, v.v...

BERZIN: Khi tôi ở Đông Âu lần chót, tôi thật sự đãgiải thích về đời sống quý giá của con người.Tôi thấy rằng nhiều người sống trong những quốc gia ấy cảm thấy đau buồncho họ, rằng dưới hệ thống ấy, họ không thể làm bất cứ điều gì thật sự đầy đủ ýnghĩa hay làm bất cứ điều gì cho đời sống của họ. Họ dường như cảm kích những giáo huấn về đờisống con người quý báu rất nhiều.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Rất tốt, đấy là sự tiếp cận đúng đắn.

Nguyên bản: Advicefrom His Holiness the Fourteenth Dalai Lama on Teaching Lam-rim
Ẩn Tâm Lộ ngày24-02-2012
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_lamrim/overview/general/advice_hhdl_teaching_lamrim.html


[1] ConĐường Tiệm Tiến Lamrim hay Những Giai Tầng Giác Ngộ

[2]Guru Devotion: mối quan hệ lành mạnhđúng đắn

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2015(Xem: 8472)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 13933)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 5708)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5152)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 4551)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9008)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5211)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
08/01/2015(Xem: 8288)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
26/12/2014(Xem: 6696)
Đức Phật dạy rằng nếu đem Đạo Pháp của Ngài đặt vào con tim của một người bình dị thì nhất định là nó sẽ bị biến dạng (saddhamma-patirupa; sad có nghĩa là đúng đắn, dhamma có nghĩa là Đạo Pháp, patipura có nghĩa là lệch lạc, do đó có thể hiểu các chữ saddhamman-patirupa là "Đạo Pháp đúng đắn không bị lệch lạc" hay bóp méo). Trái lại nếu đặt nó vào con tim của một Người Cao Quý (Kalyanamitta) (Kalyanamitta là một từ ghép; kalyana: đạo đức, nhân ái; mitta: bạn hữu, do đó có thể hiểu từ ghép này là "một người bạn đạo hạnh" hay một "người đồng hành đạo đức". Kinh sách bằng các ngôn ngữ Tây Phương thường dịch là Être Noble/Noble One. Kinh sách gốc Hán ngữ dịch là thiện trí thức/shàn zhīshì 善知識, thiết nghĩ cách dịch này không được thích nghi lắm bởi vì ngày nay rất khó hình dung ra những người "thiện trí thức" là những thành phần nào trong xã hội) thì nó sẽ trở nên tinh khiết, và sẽ không bao giờ phai mờ hay u tối.
11/12/2014(Xem: 5760)
Một thời là chữ bắt đầu của kinh Phật: “Một thời Phật tại nước Xá-vệ..”, “Một thời Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ-xà-quật…” (tạng Hán Bắc tông). “Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường…”, “Một thời Thế Tôn đang ở thành…”(tạng Pali Nam tông).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567