Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại sao là giả, là huyển

07/11/201222:48(Xem: 4031)
Tại sao là giả, là huyển

lotus_3

Không thật, giả, ảo ảnh, như huyễn, như mộng… làmột chủ đề quan trọng hàng đầu của Phật giáo, đó cũng là chủ đề quan trọng hàngđầu của con người trước cuộc đời của chính mình và thế giới mình sống.

Trước hết chúng ta nhìn lại sự giới hạn của các giácquan. Ở đây chúng ta chỉ nói về những màu sắc của sự vật mà chúng ta đang thấy.

Màu sắc là tri giác chủ quan thấy bằng mắt mà một sinhvật có được từ một hay nhiều tần số sóng ánh sáng, với một hay nhiều biên độnào đó. Định nghĩa này rút từ Wikipedia. Màu sắc của sự vật là do sự phản chiếuánh sáng từ vật ấy. Nếu không có ánh sáng chúng ta hoàn toàn không thấy gì. Ánhsáng mặt trời đã được khí quyển lọc rồi đi đến sự vật. Vật ấy hấp thu một sốánh sáng màu. Chẳng hạn chúng ta thấy lá màu lục, vì lá đã hấp thu các sóng ánhsáng màu đỏ và màu xanh. Bông hoa đỏ vì đã hấp thu các sóng ánh sáng màu xanhvà màu lục. Vật màu đen thì hấp thu ánh sáng nhiều hơn, nên nóng hơn vật màutrắng.

Màu đỏ của hoa chỉ là màu bị hắt ra, phản chiếu ra,trong khi những màu khác được hoa hấp thu rồi. Màu đỏ không phải là màu thực sựcủa hoa.

Vẫn lấy thí dụ hoa đỏ. Các sóng ánh sáng màu đỏ nàyđến mắt, vào các tế bào hình nón và hình que trong mắt. Chính các tế bào hìnhnón làm cho chúng ta thấy được màu sắc của thế giới chúng ta. Tế bào hình nóncó ba loại tạo ra ba màu căn bản của chúng ta là xanh, đỏ và lục. Số lượng vàkhả năng tiếp nhận quang tử (photon) của tế bào hình nón là có giới hạn, vì thếcó những trường hợp mắt ta không thấy được, như tia hồng ngoại, tia tử ngoại. Loàichó chỉ thấy hai màu đen trắng, ong thì có thể nhìn ra tia cực tím (tử ngoại).

Đến đây mới chỉ là sự tiếp xúc giữa sóng ánh sáng vớicác tế bào của mắt, phải có những quang sắc tố tiếp nhận kích thích của ánhsáng để sinh ra các biến đổi hóa học. Biến đổi hóa học phải đến một lượng nàođó đủ lớn để tạo thành sự dẫn truyền qua dây thần kinh đưa về não. Chính ở đâymàu đỏ mới hiện ra với chúng ta. Nói cách khác, các giác quan và não đã diễndịch thông tin được tạo bằng các phản ứng sinh hóa, điện từ này thành màu đỏ.

Bông hoa làm bằng những nguyên tử, và nguyên tử thìkhông có màu sắc nào cả. Cũng vậy, mùi hương chỉ là những nguyên tử, mà nhữngnguyên tử thì không có mùi nào cả. Mùi hương chỉ là kết quả của sự xúc chạm củacác nguyên tử với mũi và hệ thần kinh của chúng ta diễn dịch ra thành mùihương, chứ các nguyên tử làm gì có mùi hương.

Một ví dụ khác, cái bàn tôi đang ngồi viết. Với mộtkính hiển vi điện tử thì cái bàn hầu như trống không, vì khoảng không giữa nhânnguyên tử và các hạt bao quanh thì quá lớn, và khoảng cách giữa các nguyên tửcũng quá lớn so với các hạt ‘vật chất’ tạo thành nguyên tử. Cái bàn tiện dụngcho cuộc sống chúng ta như một con người. Chúng ta có thể để sách, đèn, ly nướctrên đó. Nhưng với những hạt nhẹ, như neutrino, thì chúng xuyên qua dễ dàng.Nghĩa là cái bàn là trống không với chúng.

Nói chung màu sắc, âm thanh, hương, vị, cảm giác xúcchạm… đều là những quá trình tri giác do hệ thống giác quan và ý thức tạo thànhtừ những quá trình lượng tử. Chúng chỉ có thực với hệ thống của chúng ta, chúngchỉ có ý nghĩa từ sự diễn dịch của hệ thống chúng ta. Thế giới như chúng tathấy là một quá trình diễn dịch, hay là một quá trình tưởng tượng (tưởng tượng,imaginer, có nghĩa là tạo ra hình ảnh).

Thế giới ấy hiện hữu một cách tương đối, quy ước đốivới chúng ta. Chúng có giá trị một cách tương đối, quy ước để chúng ta sốngthuận tiện trong cuộc đời cũng tương đối và quy ước của mình. Để sống cuộc đờilàm người, chúng ta sử dụng những chân lý tương đối và quy ước này. Nhưng làsai lầm và sai lầm cứ tiếp diễn khi chúng ta cho rằng chúng là chân lý tuyệtđối và tối hậu. Chính sự sai lầm này sẽ đưa chúng ta càng lúc càng sâu vào mộtthế giới giả tạo, tương đối và quy ước mà đạo Phật gọi là thế giới sanh tử.

Quá trình tri giác là một quá trình duyên sanh giữa sựvật (trần), hệ thống giác quan (căn) và thức của các giác quan và ý thức(thức). Duyên sanh hay nhân duyên sanh là sanh ra do những nguyên nhân (nhân)và những điều kiện, hoàn cảnh (duyên). Thiếu một nguyên nhân hay một điều kiện,kết quả tri giác được sẽ khác đi. Vì duyên sanh nên chúng hiện hữu một cáchtương đối và quy ước. Chúng là chân lý tương đối, quy ước.

Chân lý tương đối và quy ước tiện lợi cho cuộc sốngchúng ta. Đi trên đường mà các xe có màu sắc thì dễ thấy, dễ tránh. Nhưng chochúng là có thật một cách tuyệt đối thì đây là vô minh hay sự không biết củachúng ta.

Ý thức gắn liền với thân thể và giác quan nên nhữnggiới hạn của giác quan cũng là những giới hạn của ý thức.

Chúng ta diễn dịch thế giới bằng một loại ngôn ngữ lấythân thể làm điểm quy chiếu: trên dưới, trước sau, cao thấp, phải trái, ngọtbùi, cay đắng… Ngôn ngữ lại làm mạnh thêm cảm nhận.

Ý thức không thể nghĩ đến hai ba cái cùng một lúc:không thể nghĩ đến một đường phố Hà Nội cùng một lúc với một đường phố Sài Gòn.Không thể suy nghĩ một phương trình toán học cùng một lúc với một câu thơ. Nhưvậy ý thức không bao giờ có thể suy nghĩ được cái toàn thể, nghĩa là cùng lúcsuy nghĩ tất cả mọi phương diện của một sự vật hay sự việc.

Chính vì không thể suy nghĩ cùng một lúc Hà Nội và SàiGòn cho nên chính trong ý thức đã có khoảng hở giữa Hà Nội và Sài Gòn. Cókhoảng cách nghĩa là có không gian giữa hai cái đó. Và như vậy ý thức đã tạo rathời gian và không gian trong chính mình và cho chính mình.

Ý thức phải là sự phân biệt và tạo ra sự phân biệt.

Đã thế, ý thức còn bị in dấu, bị nhuộm màu bởi đủ thứký ức, thương ghét, ám ảnh, đố kỵ, hy vọng, hôn trầm, loạn động… Hầu hết ý thứcngười bình thường chúng ta là những phản xạ của những thứ ấy. Chúng ta phóngchiếu và diễn dịch thế giới và người khác theo những gì chúng ta có trong ýthức.

Một cuốn tiểu thuyết là những chữ, những câu. Ý thứcchúng ta xâu nối lại những sự kiện để tạo thành một câu chuyện. Không có sựtưởng tượng của chúng ta sẽ không có câu chuyện. Đã thế, chúng ta còn đọc nótheo ý riêng của mình, đồng hóa với nhân vật nào đó hoặc những tính cách nhânvật nào đó. Thế giới là một cuốn sách để mở mà mỗi người tự đọc theo sự tưởngtượng và ý nghĩa riêng của mình chăng?

Ký ức là sự tưởng tượng trở lại những hình ảnh, âmthanh, mùi hương về một sự vật hay sự việc hiện giờ không hiện hữu nữa. Khi chúngta nhớ lại thì tất cả đã không còn như cũ, tất cả đã đổi thay. Nhớ lại là sựtưởng tượng về cái không hiện hữu. Đó là một giấc mơ giữa ban ngày. Kinh Kim Cươngnói: “Tâm quá khứ bất khảđắc…”.

Ngôn ngữ là cái cần phải có để sống với người khác.Nhưng nếu không tỉnh giác tính cách tương đối và quy ước của nó thì ngôn ngữ làmột sự hỗ trợ mạnh mẽ cho sự mê lầm. Thương ai hay ghét ai, chúng ta đặt tên,dán nhãn cho những tính cách của người đó. Rồi chúng ta chỉ thấy, chỉ hiểungười đó qua cái nhãn hiệu ấy mà thôi. Dần dần chính tên của người ấy trở thànhmột ám ảnh, một tác động lên toàn bộ thân tâm của ta. Chúng ta vẫn thường nghengười ta nói, “mới nhắc tên nó đã thấy sôi máu rồi”.

Ngay cả cái tôi của mình. Cái tôi là một ký ức về tôi,nghĩa là một sự tưởng tượng trở lại một cái tôi với thân tâm không còn hiện hữunữa. Thân thể con người trong một tháng thì các tế bào đều thay mới, đều đã“tái sanh”, lấy đâu có thân thể tôi tháng trước? Tâm thức con người được tạobằng những ý tưởng vụt đến vụt đi, thay đổi từng ngày. Dòng sông hôm nay vẫncòn đó, nhưng nước sông hôm qua đã không còn. Ký ức về cái tôi còn được duytrì, làm cho sống động bằng ngôn ngữ, “tôi đã như thế này, tôi đã như thế kia”.Ngoài trí nhớ và ngôn ngữ về một cái tôi không còn hiện hữu, một cái tôi thườngcòn thì không bao giờ có.

Descartes nói: “Tôi tư duy vậy tôi hiện hữu”. Đây làmột kinh nghiệm bình thường chúng ta đều nhận thấy. Nhưng như thế thì khi tôikhông tư duy vậy tôi không hiện hữu. Cái tôi mà đứt khúc, khi có khi không, cáitôi mà chết đi sống lại liên tục như vậy có thật là một cái tôi không? Hơn nữa,người thường chúng ta thường nghĩ lung tung, đó một chiến trường hỗn loạn của ýtưởng, cảm xúc, muốn và không muốn…, cái tôi như vậy chỉ là một sự xâu xé, phântán, hỗn loạn, khổ đau.

Ý nghĩ cũng là một tưởng tượng về sự vật và sự việcchứ không phải chính là sự vật hay sự việc ấy. Nếu tưởng tượng gần đúng thìchúng ta xử lý vấn đề gần đúng, còn nếu tưởng tượng sai thì chúng ta sai lầmhoàn toàn. Ngay trong khoa học, trước khi làm thí nghiệm, chúng ta phải tưởngtượng ra điều mà chúng ta tìm kiếm trong thí nghiệm ấy. Đi mua một cuốn sách,chúng ta phải tưởng tượng cuốn sách ấy có ở nhà sách nào rồi mới đi. Cuộc sốngcủa chúng ta sống là bằng tưởng tượng, dĩ nhiên tưởng tượng dựa trên lý luậncủa chúng ta, và tưởng tượng thì có thể gần đúng hoặc hoàn toàn là ảo tưởng.

Trong cuộc đời này, tôi là một person, một người, mộtnhân cách, một nhân vật, một ngôi vị. Chữ personnày có nguồn từ chữ personacủa HyLạp, La -tinh, có nghĩa là cái mặt nạ. Ở đời này tôi đóng nhiều vai, trong giađình tôi có thể là cha mẹ, là vợ chồng, là con cháu. Đến chỗ làm, nói với ngườicấp dưới tôi có cách nói khác, với người cấp trên tôi có cách nói khác. Vàosiêu thị tôi đóng vai làm khách hàng, vào đại học tôi đóng vai một học trò. Ởcuộc đời này chúng ta có nhiều vai diễn, nhiều nhân vật, nghĩa là khoác nhiềumặt nạ.

Những mặt nạ ấy có tính chất quy ước, tạm thời. Nhưng tiếcthay ít khi chúng ta thấy ra điều đó và chúng ta cứ đồng hóa với những nhân vậtđó, những mặt nạ đó. Chúng ta không đóngnữa, không diễnnữa. Chúng ta những nhân vật đó, những mặt nạ đó.Trước sau đạo Phật vẫn nói chúng ta vốn giải thoát, chẳng có gì để ràng buộcchúng ta cả. Vậy mà do không biết, vô minh, chúng ta cứ tự ràng buộc với nhữngnhân vật, những mặt nạ để rồi sung sướng, khổ sở, để rồi vênh vang tự đắc haybuồn rầu tuyệt vọng. Chúng ta nhữngchiếc mặt nạ đó cho nên chúng ta phải vui buồn theo chúng, sống và chết theochúng.

Chúng ta còn có thể nói nhiều về nhiều thứ khác nữa. Nhữngthứ chúng ta đã phác lược qua, tri giác giác quan, ý nghĩ, sự tưởng tượng, kýức, sự đồng hóa với vai trò trong vở kịch đời, cái tôi và cái của tôi… chochúng ta thấy một điều là chúng không thật một cách rốt ráo, chúng chỉ tạm thờiđể tiện dụng cho cuộc sống hàng ngày, chúng là những chân lý quy ước, tươngđối, mà đạo Phật gọi là thế đế, tục đế. Điều sai lầm chí tử của chúng ta là chorằng chúng có thật một cách tuyệt đối, chúng là những chân lý tuyệt đối và tốihậu. Với sự lầm lẫn căn bản này, chúng ta bắt đầu bước vào một thế giới củathất vọng và khổ đau.

Cái tôi và cái của tôi là một chân lý quy ước, tươngđối, nghĩa là chúng do rất nhiều nguyên nhân (nhân) và điều kiện (duyên) sanhra. Thiếu một nguyên nhân, thiếu một điều kiện, có thêm một nguyên nhân, thêmmột điều kiện, cái tôi sẽ là một cái tôi khác. Thiếu không khí trong vòng vàiphút hay dư nước trong vòng vài phút thân tâm này sẽ chết. Thân tâm tôi là doduyên sanh, không lúc nào mà không là duyên sanh, nên nó không thường còn (vôthường), nó không có bản chất của tự nó (vô tự tánh, giả hợp), và không phải làmột cái tôi thật (vô ngã). Bám chấp vào nó thì chỉ có bất toại nguyện, khổ đau(khổ).

Sự thật về mọi sự là vô thường, khổ, vô tự tánh, vôngã, giả hợp, như mộng, như huyễn được đạo Phật gọi là chân lý tuyệt đối, tốihậu (chân đế). Chân lý tuyệt đối tối hậu vì không thể nào khác đi được dù trongbất kỳ điều kiện nào, hoàn cảnh nào. Đại thừa tóm tắt tất cả những chân lýtuyệt đối ấy vào một từ tánh Không. Dĩ nhiên tánh Không không chỉ gồm những ýnghĩa tiêu cực ‘không có’ (vô) mà còn là những ý nghĩa tích cực, thậm chí tíchcực tuyệt đối, bởi vì tánh Không là tánh Như.

Sống bằng ý nghĩ, mà ý nghĩ có bản chất là tưởng tượngvà phân biệt hư vọng, điều đó Duy thức tông gọi là thức biến. Những nhận xét vềcái tôi và cái của tôi là giả, là như huyễn ở trên là một phần của điều Duythức gọi là thức biến. Vì là thức biến cho nên là giả, là như huyễn.

Ở đây chúng ta cũng cần có một chánh kiến về giả vànhư huyễn. Khi nói giả, không thật, mộng huyễn thì không có nghĩa là không cógì hết, chẳng có gì giá trị hết. Không thật là không thật đối với cái giả, chứkhông phải không thật đối với cái thật. Nếu không thấy mặt tích cực của giả vànhư huyễn, người ta rất dễ lọt vào hư vô chủ nghĩa (đoạn kiến), cho tất cả làhư vô trong khi vẫn bám chặt vào cuộc đời.

2. Những dẫn chứng ở trên, tuy vắn tắt, nhưng đưachúng ta đến một sự thật: “Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn sự duy chỉ là thức”. Chúngta cũng dễ suy ra một hệ luận là nếu tâm và thức thanh tịnh, thì ba cõi và muônsự đều thanh tịnh. Đó là con đường Phật giáo tịnh hóa những mê lầm của tâmthức.

Chúng ta cần phân tích, quan sát để biết giả, nhưhuyễn, như mộng. Chúng ta cần biết cuộc sống mà chúng ta đang sống đây chỉ làchân lý tương đối mà không gia công vào đó những phiền não tham sân si để sốngđúng hơn, mà sống đúng hơn thì đỡ khổ hơn. Đạo Phật chỉ là thế: đưa người ta từcái thấy nghĩ sai lầm để gây ra khổ đau không dứt đến cái thấy nghĩ không sailầm để chấm dứt khổ đau vô cớ.

Thế giới, con người và cái tôi vì những nhân duyên tạmthời hòa hợp mà có, rồi được gán tên định danh mà trở thành có thật một cáchkiên cố, chấp chặt vào đó để khởi tham, giận, ghét, oán… đó là thế giới khổ đaumà chúng ta gọi là sanh tử. Để thoát khỏi cái thế giới phân mảnh, không thể hàihòa, đối nghịch và chiến tranh nhưng bản chất là không thật này, chúng ta phảinhìn ra thật tướng của nó là giả hợp, là do chúng ta tưởng tượng sai lầm (vọngtưởng) mà có ra, là do “mộng tưởng điên đảo” của chúng ta mà tạo thành. Đểthoát khỏi sự việc cho rằng chân lý tương đối là chân lý tuyệt đối, là sự thậtrốt ráo, chúng ta phải nhìn thấy thế giới và cái tôi của chúng ta đúng nhưchúng là, nghĩa là vô tự tánh và như huyễn.

Kinh ViênGiácnói: “Ví như ngọc báu Ma-nithanh tịnh, tùy mỗi phương mà ứng hiện ra năm màu. Những người vô minh khôngbiết thì khi nhìn ngọc Ma-ni kia, cho là ngọc Ma-ni có thật năm màu”.

Thấy vô tự tánh và như huyễn như vậy là để gỡ bỏ nhữngkiến chấp cho là có thật mà chúng ta gắn chặt vào sự vật. Vô tự tánh, giả, nhưhuyễn là để đối trị với nhận thức có tự tánh, có thật mà chúng ta vẫn khoác lênthế giới và chính chúng ta từng phút từng giây.

Quán sát giả, như huyễn là lột ra những lớp vọng tưởngcủa thức ô nhiễm phóng chiếu như lột một củ hành, một cây chuối, hết lớp nàyđến lớp nọ, để tận cùng chứng nghiệm thấy rõ ở trung tâm không có cái gì cả. Đólà vô ngã, là tánh Không, là Bổn lai diện mục. Từ đó tiếp tục sống đời sống củachân lý quy ước, tương đối, giả, như huyễn để giúp đỡ những người đang chìm đắmtrong thế giới mộng tưởng này. Muốn giúp đỡ người khác thì phải sống với họ,cùng họ, sống trong vở kịch đời nhưng tự biết đang đóng kịch. Muốn thức tỉnhnhững người đang mộng thì phải đi vào giấc mộng mà mọi người đang sống. Đó làđiều người xưa gọi là “người huyễn làm việc huyễn trong đạo tràng như huyễn”.

Trí là chân lý tuyệt đối, tối hậu đối lại với thức làchân lý tương đối, quy ước. Niết-bàn là trí không ô nhiễm, là sự tắt mất nhữngảo tưởng sai lầm. Còn sanh tử là thức bị ô nhiễm và nuôi dưỡng, trưởng dưỡngnhững ảo tưởng sai lầm.

Cuối cùng của con đường giả và huyễn chúng ta thấy cóhai thái độ, hai cách hành động. Một thái độ và cách hành động là thấy mọi sựquả là giả, huyễn, mộng thì vứt bỏ hẳn cái giả, huyễn, mộng ấy đi. Thái độ vàcách hành động thứ hai thì ngay từ đầu con đường đã lấy đại bi làm bổn nguyện,nên mặc dầu biết là giả, huyễn, mộng vẫn tiếp tục sống trong sanh tử giả,huyễn, mộng như vậy để giúp đỡ chúng sanh huyễn mộng. Chính vì như vậy mà vớivị này có thêm chữ như: nhưhuyễn, nhưmộng. Một trong những chánh định củavị ấy là như huyễn tam muội.

Nói cách khác, vị trước chỉ sống chân lý tuyệt đối,tối hậu. Còn vị sau thì sống đồng thời cả chân lý tuyệt đối, tối hậu và chân lýquy ước, tương đối như huyễn. Đến độ của hai chân lý ấy là một: “sắc tức làKhông, Không tức là sắc”, “sanh tử tức Niết-bàn”.

Đây là một nghĩa của danh từ Trung đạo, là phái doBồ-tát Long Thọ lập, dựa trên hệ thống các bộ kinh Bát-nhã. Đây là sự tự do củaTrung đạo, tự do đối với cả sanh tử lẫn Niết-bàn.

(Văn Hoá Phật Giáo số 164)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5719)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 15560)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4969)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5492)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5576)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5458)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6163)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 5013)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4850)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 16097)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]