Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vầng Trăng Sáng Tỏ (Thi Kệ về cuộc đời Đức Phật Thích Ca)

14/03/201701:17(Xem: 6147)
Vầng Trăng Sáng Tỏ (Thi Kệ về cuộc đời Đức Phật Thích Ca)


ducphatthichca-2
VẦNG TRĂNG TỎ SÁNG
THI KỆ CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI


Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta

Có mẹ có cha, giống như mọi người.

Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da

Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài.

Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời

Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.

Kế mẫu em bà, thay chị nuôi con

Đến khi khôn lớn, vua cha cưới vợ.

Công chúa xinh đẹp, Da Du Đà La

Tánh nết hiền hòa, con vua Thiện Giác.

Thật là xứng đôi, trai tài gái sắc

Tuy sống giàu sang, trong cảnh huy hoàng.

Một hôm Thái tử, dạo chơi bốn cửa

Tìm hiểu sự sống, dân tình ra sao?

Thấy cảnh người già, thân hình tiều tụy

Đi đứng khó khăn, gối mỏi lưng còng.

Rồi thấy người bệnh, nằm rên một chỗ

Tâm thần bấn loạn, đau khổ não nề.

Lại thấy một người, ruồi bu kiến đậu

Nằm yên một chỗ, chẳng còn biết chi.

Thái tử buồn rầu, thấy cảnh đau thương

Mới hỏi Sa Nặc, vì sao như thế?

Sa Nặc trả lời, dạ thưa Thái tử

Sinh già bệnh chết, chẳng chừa một ai?

Rồi đến bữa khác, Thái tử dạo tiếp

Thấy một Sa Môn, đạo cao đức trọng.

Đi đứng khoan thai, dáng người thoát tục

Ngài mới hỏi rằng, vì sao đi tu.

Dạ thưa Thái tử, cuộc sống tu hành

Ngày ăn một bữa, vừa đủ nuôi thân.

Mỗi ngày quán chiếu, sự sống thế gian

Mọi vật vô thường, có gì luyến tiếc?

Buông xả tất cả, để được an lạc

Tu hành như thế, mới thật là vui!

Thái tử nghe qua, lòng mừng vô hạn

Từ đây về sau, tìm ra manh mối.

Mới trình vua cha, cho con xuất gia

Làm hạnh khất sĩ, rày đây mai đó.

Trên cầu Thành Phật, dưới độ chúng sinh

Thoát khỏi khổ đau, sinh già bệnh chết?

Khi nghe như thế, đức vua Tịnh Phạn

Lòng buồn rười rượi, không biết làm sao?

Vua cha mới nói, ta chỉ mình con

Kế thừa ngai vị, đến già rồi tu?

Thái tử thưa cha, giờ này còn trẻ

Không chịu lo tu, đến lúc tuổi già.

Thói quen tham đắm, dính mắc lâu ngày

Làm sao buông xả, sân giận si mê?

Thái tử thưa rằng, xin cha hoan hỷ

Cho con xin hỏi, bốn điều tâm quyết.

Nếu cha giải được, con xin ở lại

Kế thừa ngôi vua, trị vì thiên hạ.

Làm sao cho con, trẻ mãi không già?

Làm sao cho con, sống đời không bệnh?

Làm sao cho con, sống hoài không chết?

Làm sao cho con, thoát khỏi sinh tử?

Đức vua Tịnh Phạn, nghe con nói thế

Trong lòng đau khổ, chẳng biết làm sao!

Giải đáp thắc mắc, cho con tỏ tường

Nên đành chấp nhận, Thái tử xuất gia.

Về phần vợ nhà, Thái tử thuyết phục

Da Du Đà La, vui vẻ nuôi con.

Đến khi khôn lớn, tiếp bước theo ta

Sống đời thoát tục, rộng độ quần sanh.

Công chúa Đà La, hoan hỷ vô cùng

Vì tròn tâm nguyện, cứu độ chúng sinh.

Sắp xếp mọi việc, Thái tử lên đường

Mùng tám tháng hai, vượt thành xuất gia.

Thời gian năm năm, cầu đạo hai thầy

Chẳng chứng giải thoát, nên đành rút lui.

Thái tử nghe đâu, lối tu khổ hạnh

 Có thể chứng đạt, Niết-bàn vô sanh.

Sáu năm khổ hạnh, quyết tâm hành trì

Đến khi thân thể, còn xương bọc da.

Thái tử ngất xỉu, nằm bên vệ đường

Thiếu nữ chăn bò, động lòng thương xót.

Dâng cho bát sữa, chàng liền tỉnh ra

Mới ngồi quán chiếu, biết mình đã sai.

Từ nay xả bỏ, cực đoan hai đầu

Quay về trung đạo, tâm thần sáng trong.

Để không lỗi đạo, tu hành xưa nay

Ngài liền phát nguyện, dưới cội Bồ-đề.

Ta đây dù có, tan xương nát thịt

Nếu không thành đạo, thà chết chỗ này.

Sau bốn mươi chín, ngày đêm miên mật

Ngài đã thực chứng, Niết-bàn giải thoát.

Không còn khổ đau, luân hồi sống chết

Năm ấy nhằm ngày, tám tháng mười hai.

Sau khi giáo hóa, bốn mươi chín năm

Mười lăm tháng hai, Ngài nhập Niết-bàn.

Mọi người mới hỏi, lấy ai làm thầy

Phật dạy bốn chúng, lấy giới làm đầu.

Siêng tu thiền định, sáng soi chính mình

Buông xả hai bên, thành tựu giải thoát.

Nghe vẻ nghe ve, nghe vè nghe vẻ…

Ai biết hành trì, phước huệ song tu

Tu hạnh Bồ-tát, chứng thành Phật quả.

Chẳng cầu Tây phương, ba cõi sáu đường

Ngay nơi cõi này, cứu độ quần sanh.

Để trả ân nghĩa, tội lỗi nhiều đời

Tu theo hạnh nguyện, Bồ-tát Quán Âm.

Cứu khổ ban vui, tốt đạo đẹp đời

Tứ chúng nghe xong, thảy đều hoan hỷ.

Phát nguyện vâng lời, tu giới định tuệ

Từ bi hỷ xả, cứu độ chúng sinh.

Dìu dắt mọi người, đền trả bốn ân

Cho đến khi nào, thành Phật mới thôi.

Bốn chúng đồng tu, hãy nghe cho rõ

Tự mình thắp lên, ánh sáng trí tuệ.

Chứ đừng van xin, cầu cạnh bên ngoài

Không khéo vô tình, phỉ báng pháp ta.

Người đủ niềm tin, quay lại chính mình

Sống đời giải thoát, an vui lâu dài.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân là một Thái tử, tên Sĩ-Đạt-Ta, dòng họ Cồ Đàm, Vương tộc Thích Ca, thuộc đẳng cấp Sát-Đế-Lợi, con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-Da.

Ngài sinh vào ngày rằm tháng tư năm 624 trước tây lịch (theo Nam tông) mùng tám tháng tư (theo Bắc tông) tại vườn Lâm-Tỳ-Ni, nước Ca-Tỳ-La-Vệ. Thái tử Sĩ-Đạt-Ta và công chúa Da-Du-Đà-La có một người con trai tên là La-Hầu-La.

Khi phước duyên hoàn mãn, Đức Phật đã 80 tuổi. Ngài quyết định nhập Niết Bàn tại rừng Sa-La ở xứ Câu–Ly, cách thành Ba-La-Nại chừng 120 dặm. Lúc ấy là ngày rằm tháng hai âm lịch năm 544 trước Tây lịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2013(Xem: 32146)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
07/12/2013(Xem: 22102)
Phật Ngọc, ước nguyện hòa bình thế giới
05/12/2013(Xem: 4630)
Nếu không phân biệt thiện-ác, thì làm sao mà hành thiện? Nhưng nếu phân biệt thiện-ác, thì còn vướng mắc vào cái nhìn thiển cận, méo mó, sai lạc của nhị biên, còn chưa thấy được cái Không của sự vật…
03/12/2013(Xem: 58279)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 23785)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
25/11/2013(Xem: 19367)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
16/11/2013(Xem: 27603)
Tên tục của tôi là Trai. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Lương. Cha tên Ngọc Đường, mẹ tên Nhan Thị. Năm đầu đời nhà Thanh, cha làm quan tại tỉnh Phú Kiến. Năm mậu tuất và kỷ hợi làm quan tại châu Vĩnh Xuân. Cha mẹ đã ngoài bốn mươi mà chưa có mụn con. Mẹ ra ngoài thành nơi chùa Quán Âm mà cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan nơi thành không ai sửa chữa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả cha lẫn mẹ đều nằm mơ thấy một vị mặc áo xanh, tóc dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Ấm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên trên giường. Mẹ kinh sợ, giật mình thức dậy, liền thọ thai. Cuối năm đó cha đi nhậm chức tại phủ Nguyên Châu.
06/11/2013(Xem: 3838)
Chỉ dạy chúng sanh tu hành thành Phật là bản hoài của chư Phật. Song vì trình độ khả năng sai biệt của chúng sanh, không thể đồng tu theo một môn và đồng kết quả như nhau được, bất đắc dĩ Phật phải dạy nhiều phương pháp tu khác nhau. Trong đó đại khái chia làm hai loại: tu còn luân hồi, tu ra khỏi luân hồi (giải thoát).
06/11/2013(Xem: 18150)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
24/10/2013(Xem: 3913)
Nếu bảo rằng vì ngôn tự âm thanh đều vô thường nên không muốn đọc, không muốn nghe, thì chẳng khác nào đà điểu vùi đầu vào cát (để tránh hiểm nguy, hay trốn chạy thực tế?). Che mắt, bịt tai, từ ngàn xưa, vốn không phải là hành vi và thái độ của người trí. Người trí là người luôn mở mắt lắng tai để thấy, để nghe, để nắm bắt thực tại. Từ hàng thứ dân cho đến kẻ lãnh đạo (chính quyền, đảng phái, tôn giáo, tổ chức xã hội/dân sự, cơ quan truyền thông…), đều phải mở mắt, lắng tai, mới mong hiểu được sự thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]