Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống chết kiếp nhân sinh do không biết lối đi

29/03/201207:34(Xem: 2686)
Sống chết kiếp nhân sinh do không biết lối đi



ducphatthichca-2

SỐNG CHẾT
 
KIẾP NHÂN SINH
 
DO KHÔNG BIẾT LỐI ĐI





Chúng ta đến với nhau

Bằng tình yêu luyến ái

Là tự mình ràng buộc

Trong nhiều kiếp mai sau.

Muốn chấm dứt sống chết

Hãy diệt trừ tham ái

Chuyển hóa sự vô minh

Để sống đời hạnh phúc.


Sự có mặt của một chúng sinh hay con người là do nhiều nguyên nhân kết hợp lại mới hình thành. Khi nhân duyên đầy đủ, qua sự kết hợp của tình yêu thương nam và nữ, chất ái của tinh cha huyết mẹ, cùng với thần thức chờ tái sinh, cộng với sự mong mỏi tìm sự sống mà ta có nên hình hài này. Như khi ta uống một ly nước, nước ở trong ly được đưa vào cơ thể, tuy nước trong ly không còn nhưng không bị mất hẳn mà đang được thấm nhuần trong cơ thể chúng ta. Ta có mặt trong cuộc đời là sự biểu hiện của ý thức được tích tụ trong hiện tại mà biến hóa để được tồn tại theo nguyên lý nhân quả duyên sinh.

    Cũng giống như nước khi được đun sôi đã chuyển từ thể lỏng qua dạng bốc hơi rồi thành mây, khi gặp khí lạnh nó sẽ rơi xuống thành mưa và thấm nhuần vào cây cỏ, đất cát. Tình yêu thương nam nữ là sự kết hợp nhịp nhàng của con tim và khối óc hòa quyện cùng nhau tạo nên sự hưng phấn bằng chất ái của tình và nghĩa.

     Con người và muôn loài vật khác phải nương nhờ lẫn nhau trong đời sống cộng đồng. Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống. Con người khi còn nhỏ phải nương tựa cha mẹ và gia đình, người thân. Ai khi còn nhỏ đã mất cha mất mẹ thì cảm thấy mồ côi, sống trong cô đơn, không có điểm tựa khi phải tự bươn chải một mình. Khái niệm cô đơn vì không có tổ tiên ông bà, cha mẹ người thân. Chúng ta khi ấy cảm thấy buồn tủi với cảm giác trống trải, không có ai bên cạnh để động viên, an ủi, vỗ về.

     Khi con người lớn lên, nhu cầu chia sẻ và sự nương tựa vào nhau càng mạnh mẽ hơn. Chúng ta có thể tự vươn lên nhờ ý niệm ham sống sợ chết, sợ cô đơn mà luôn giữ mối quan hệ tương giao với mọi người. Chúng ta cần bạn bè, người thân, cần sự ăn uống, cần quần áo che thân và cần có tình yêu thương nhân loại. Trong cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời, nguyên nhân chính yếu của sống chết-luân hồi là từ sự yêu thương, luyến ái mà ra. Một tác nhân khác là sự nhận thức mê lầm do vô minh hoặc nghiệp trong quá khứ dẫn khởi đến tái sinh thọ quả hiện tại. Nhân duyên không hẳn đơn thuần biểu hiện trong hiện tại mà có thể đã được tạo ra trong quá khứ và hằng hà sa số kiếp về trước. 

     Nếu xét qua liên hệ nhân duyên quả sinh khởi mật thiết trong hiện tại thì chúng ta cũng có thể biết được kiếp trước ta và người đã làm gì, ở đâu và đã tạo những nghiệp nhân nào trong quá khứ. Do đó, trong hiện tại chúng ta cũng có thể biết mình sau khi chết sẽ đi về đâu qua việc làm nơi hiện tại trong một thời gian dài, chính chúng sẽ quyết định đời sống kế tiếp của ta tốt hay xấu. Chính vì vậy, chúng ta muốn biết nhân đời trước của mình ra sao thì cứ nhìn vào Chánh báo trong hiện tại; muốn biết quả báo trong tương lai thế nào thì cứ nhìn vào việc làm hiện tại chúng ta đang tạo tác và thực hiện. Chính vì thế, việc tạo nhân trong hiện tại sẽ quyết định quả khổ đau hay hạnh phúc ở tương lai khi hội đủ nhân duyên.

     Tự lập hay làm chủ bản thân là một khả năng kỳ diệu có thể có trong những người sống có hiểu biết chân chính, tự tin chính mình mà biết cách làm lành tránh dữ bằng trái tim hiểu biết. Yêu thương trong luyến ái là nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy con người đi sâu vào đời sống cộng đồng, hình thành và phát triển, xây dựng, bảo vệ giống nòi nhân loại. Nương tựa vào nhau để được tồn tại và phát triển là nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong đời sống nhân loại dù rằng mọi thứ đều mang tính vô thường. Ham muốn là điều kiện tạo ra nhân duyên để hình thành một chúng sinh hay một con người. Ham muốn vì lợi ích cộng động, xã hội sẽ đưa chúng ta đến 3 cõi trên như người, trời, A tu la. Ham muốn trong ích kỷ thấp hèn sẽ đưa ta đi vào 3 đường dữ là địa ngục, quỷ đói và súc sinh.

    Nhân duyên của luân hồi sống chết là một dây chuyền liên tục chuyền từ khâu này đến khâu khác trong một kiếp cũng như trong nhiều đời. Chẳng hạn, người muốn làm nghề luật sư và có ham muốn làm nghề luật sư nên cố gắng học hỏi, tham gia cộng đồng sinh viên các trường luật. Chúng ta muốn làm quen với cô gái kia vì thấy cô ấy dễ thương nên sinh lòng yêu thích mà tìm cách tạo đủ thứ nhân duyên để được gặp gỡ rồi từ đó hẹn hò, tiếp xúc mới phát sinh tình cảm và dẫn đến yêu thương, muốn chiếm hữu cho riêng mình.

     Vì con người muốn phát triển và tồn tại nên tìm cách chứng minh mình không cô đơn do đó chúng ta muốn có bạn bè, muốn có gia đình người thân, muốn có tình yêu thương chân thật; tức là muốn có sự kết nối yêu thương để biết ta vẫn còn sống và đang tồn tại. Xã hội ngày nay rất cần sự nương tựa giữa con người với nhau hơn xã hội ngày xưa. Cha mẹ nương tựa con cái, anh em nương tựa nhau, vợ chồng nương tựa nhau, hàng xóm nương tựa nhau, ngành công nghiệp này hợp tác nương tựa với ngành công nghiệp kia, quốc gia này hợp tác nương tựa với quốc gia kia. Cho nên, con người không bao giờ cô đơn vì chúng ta đã có tình yêu thương nhân loại bằng trái tim hiểu biết. Con người chúng ta có những nhu cầu để giúp lẫn nhau trong cuộc sống. Cái gọi là cần nhau này không chỉ đơn thuần là người này cần người kia như con cái cần cha mẹ và cha mẹ chăm sóc, giúp đỡ con cái.

     Vì thấy biết sai lầm nên chúng ta không hiểu sự vật trong bầu vũ trụ bao la này từ đâu mà có. Có người nghĩ vũ trụ do tự nhiên, khi không ngẫu nhiên sanh. Một số người lại cho rằng vũ trụ do một đấng thần linh thượng đế tạo ra. Theo đạo Phật thì bầu vũ trụ bao la này là vô thỉ, vô chung nghĩa là không có điểm khởi đầu và điểm kết thúc, tất cả mọi hiện tượng sự vật phải nương nhờ nhau mà thành. Hay nói cách khác, từ con người cho đến muôn loài vật đều do nhân duyên mà có.

     Vì sao gọi là "nhân duyên"? “Nhân” là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính nó là nhân trực tiếp sinh ra một vật khác, như hạt lúa làm nhân sinh ra cây lúa. “Duyên” là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được hình thành; như phân, nước, ánh sáng, con người… là trợ duyên giúp cho hạt lúa phát triển thành cây lúa. Các vật đều là nhân, các nhân đó "duyên" với nhau mà thành ra các vật khác; như xi măng, cát, đá, gạch, ngói, gỗ, sắt, người… là nhân, các nhân này duyên vào nhau mà thành ra cái nhà. Vì các pháp trùng trùng duyên khởi nhiều lớp làm duyên cho nhau nên thành ra có nhiều hình tướng sai khác.

     “Vô minh” là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản tính duyên khởi chân thật. Do vô minh nên chúng ta không biết tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhân duyên hội hợp giả có sinh ra, và mất đi do nhân duyên tan rã nên không có thực thể cố định. Chính vì chúng ta không biết rõ ràng như thế nên lầm nhận thân này là thật có “cái ta”, cho đến hoàn cảnh ta cũng cho là thật có, từ đó sinh ra chấp trước, luyến ái, bảo thủ.

     Với cái vòng lẩn quẩn của cuộc đời, nguyên nhân chính yếu của sống chết-luân hồi là từ sự yêu thương, luyến ái mà ra. Một đàng qua tác nhân nhận thức mê lầm do vô minh hoặc nghiệp trong quá khứ dẫn khởi đến tái sinh thọ quả hiện tại. Nhân duyên không hẳn đơn thuần biểu hiện trong hiện tại mà có thể đã được gây tạo trong quá khứ và vô lượng kiếp trước. Chính vì thế, nếu muốn biết nhân đời trước của mình ra sao thì cứ nhìn vào Chánh báo trong hiện tại, muốn biết quả báo mai sau thế nào thì cứ nhìn vào việc làm trong hiện tại. Vì lẽ đó, việc tạo nhân trong hiện tại sẽ quyết định quả khổ đau hay hạnh phúc trong đời sống kế tiếp.      

     Nhân duyên cuộc đời là một sự kết nối liên tục, cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, chuyền nối nhau từ sự đan xen chằng chịt của nhân duyên trong nhiều đời. Do có vô minh dẫn đến những tạo tác hành động (Hành) ở các đời quá khứ nên duyên khởi ra tâm thức (Thức) của đời này. Tâm thức ấy theo nghiệp báo mà duyên sinh ra danh sắc (hình hài). Danh sắc duyên sinh ra lục nhập (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý). Lục nhập duyên sinh ra xúc (xúc chạm, tiếp xúc). Xúc duyên sinh ra Thọ (cảm nhận). Thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ đều là quả báo của các nghiệp nhân đã gây ra từ nhiều đời trước. Khi tâm chúng sanh thọ nhận các quả báo đó thì do sự đối đãi giữa thân và cảnh lại sinh ra những điều ưa-ghét; ưa thì thích thú, bám víu; ghét thì muốn phá bỏ; rồi sinh ra luyến ái. Do có ưa-ghét mà gắn bó ta-người và hoàn cảnh. Vì chấp là thật có do không biết thân tâm và cảnh giới đều duyên khởi như huyễn (không thật) nên mới có thủ (chấp trước, dính mắc, bám víu).

    Do có chấp trước nên mọi sự vật vốn là huyễn hóa lại biến thành thật có. Thân cũng có, cảnh cũng có, ý thức phân biệt cũng có, mình cũng có, người cũng có; rồi từ đó sinh ra có gây nghiệp và có chịu quả báo. Đã có gây nghiệp và đã có chịu báo thì khi hết thân này, nghiệp báo sẽ dẫn dắt vào một thân khác trong tương lai.

    Đó là sanh, mà đã có sanh thì nhất định dẫn đến già-bệnh-chết; nhưng xét cho cùng thì chẳng những trong nhiều đời mà trong từng niệm ưa-ghét cũng đã tạo ra nhân duyên liên tục không gián đoạn. Trong cuộc sống, chúng ta do vô minh nên không nhận thấy đạo lý duyên khởi như huyễn hóa, không thật có nên tâm mới khởi vọng niệm phát sinh tạo ra thói quen đời này, đời sau tiếp nối nhau.

    Chúng ta có mặt trong cõi đời này là do niệm luyến ái mà tìm đến nhau, yêu thương nhau và gá nghĩa vợ chồng cùng nhau. Đối với cuộc đời, tình yêu thương nam nữ để bảo vệ giống nòi nhân loại có thể đẹp như trong mơ và đáng được ôm ấp trong vòng tay thân yêu, nhưng đối với người xuất gia vì phải đi ngược lại với dòng đời, nên không thể sống như người thế gian bằng tình yêu thương nam nữ.

     Một cô gái nọ là một tiếp viên nhà hàng, lần đầu tiên cô gặp một chàng trai và con tim đã thổn thức, rung động. Niệm thương chàng trai đó khởi lên trong lòng cô rất mãnh liệt dù chỉ lần đầu tiên họ gặp nhau và từ đó họ bắt đầu quen nhau rồi yêu nhau. Tuy nhiên, chàng trai sau đó lại thay đổi tính tình, kết bạn với thành phần xấu và đi vào thế giới ảo của xì ke ma tuý. Cô gái bây giờ không dứt ra được vì thương chàng quá mãnh liệt dù biết có nhiều nguy hiểm nếu tiếp tục duy trì tình yêu thương ấy. Chàng trai thì dính mắc vào việc ăn chơi sa đọa, cô gái thì luyến ái yêu thương nên không thể rời xa được. Cả hai đang tự hành hạ lẫn nhau vì đã trót yêu thương trong dại khờ, mê muội. Yêu thương không đúng cách có thể dẫn đến đổ vỡ rất mau và kết nên oan trái làm đau khổ cho nhau.

    Tương tự như vậy. Một người mẹ có đứa con trai duy nhất đã đến tuổi trưởng thành, hai mẹ con từ xưa nay thương nhau hết mực không gì có thể sánh bằng. Tình mẹ thương con như biển hồ lai láng nên hai mẹ con nương tựa nhau giống như cây cau và dây trầu, chàng trai mỗi ngày đi làm về luôn ân cần chăm sóc mẹ chu đáo. Rồi thời gian trôi qua, một hôm đứa con đi nhậu về nói năng lạng quạng, không còn giữ được phong cách như ngày nào. Người mẹ lên tiếng quở trách thì không ngờ trong men say vật vờ, đứa con không làm chủ được bản thân khi nghe những âm thanh nặng nề, khó chịu mà từ xưa nay chẳng bao giờ có nên mất bình tĩnh đánh mẹ một cái như trời giáng. Người mẹ té ngã và bị gãy chân. 

     Vô minh là sự không sáng suốt, thấy biết sai lầm hay nhìn nhận sai lệch về sự thật giả của cuộc đời. Thế gian này khi hai người thương nhau và quyết định thành chồng vợ, bắt đầu làm tờ giấy kết hôn và làm đám cưới ra mắt gia đình, họ hàng hai họ thì từ đó sợi dây tơ hồng đã ràng buộc hai người vui khổ cùng có nhau.

    Chúng ta vì bị vô minh che lấp nên có ảo giác cái gì cũng thực có bền bỉ, lâu dài nên sinh ra luyến ái và tham đắm. Ta ảo giác về sắc thân là thật có nên ham thích và muốn chiếm hữu cho riêng mình. Chiếm hữu ở đây có thể hiểu là muốn nắm giữ nó mãi mãi. Thực ra, tâm luyến ái vẫn không thể thỏa mãn được vì nó chỉ là cảm giác nhất thời rất ngắn ngủi và mau chóng trôi qua.

    Tất cả cũng chỉ vì mình thương “cái ta” riêng mình nên mới yêu thương người khác để được người thương yêu lại. Sỡ dĩ người đàn ông hay ngoại tình hoặc có nhiều thê thiếp là vì lòng ham muốn mạnh mẽ và háo sắc. Đam mê, dính mắc, tham đắm vào sắc đẹp rồi sinh luyến ái muốn chiếm giữ là điều kiện tạo duyên cho sự tái sinh của đời sau.

Chúng ta đến với nhau

Bằng tình yêu luyến ái

Là tự mình ràng buộc

Trong nhiều kiếp mai sau.

Muốn chấm dứt sống chết

Hãy diệt trừ tham ái

Chuyển hóa sự vô minh

Để sống đời hạnh phúc.

     Mười hai nhân duyên này liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng luân hồi sống chết. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2015(Xem: 8481)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
25/02/2015(Xem: 13947)
Tựa đề bài viết này là bốn chữ trích từ câu thứ nhì trong bài “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” (bài Tâm Kinh, bản dịch của Ngài Huyền Trang, gồm 270 chữ). Nguyên văn câu này là: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị .”
25/02/2015(Xem: 5713)
Chủng tử là hạt mầm của đời sống, là nguồn năng lượng đơn vị cấu thành nghiệp lực, là yếu tố sâu kín và căn bản quyết định sự hình thành cái ‘Ta’ (Ngã) và những cái của Ta (Ngã Sở), là nguyên nhân của mọi hoàn cảnh gặp được trong đời, là đầu mối của hạnh phúc và khổ đau trong hiện tại và dẫn dắt vào vị lai, đời này và đời sau. Soi rọi dưới lăng kính Duy Thức Học cùng vòng chuỗi Mười Hai Nhân Duyên (1.Vô Minh, 2. Hành, 3. Thức, 4. Danh Sắc, 5. Lục Nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão Tử) ta có thể rút ra một số nhận định về tiến trình hình thành chủng tử.
29/01/2015(Xem: 5164)
Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.
29/01/2015(Xem: 4555)
Hôm nay Tăng Ni, Phật tử về đây để mừng năm mới và tha thiết chúc tụng chúng tôi. Thật ra chúng ta mừng thêm một tuổi hay buồn bớt đi một năm sống ? Lần lượt hết năm này sang năm khác, cứ thế mà chúng ta trải qua mấy mươi năm từ thuở bé cho đến ngày nay. Riêng tôi thì tóc bạc da nhăn rồi, còn quí vị có người tóc đã bắt đầu bạc, cũng có người còn trẻ hơn. Trên con đường sanh tử, có người đi hơn nửa đường, có người đi nửa đường, có người mới đi một phần ba, một phần tư đường, đã đi thì nhất định là phải đến, không ai không đến. Thế nên trong nhà Phật lẽ sanh tử là một việc lớn.
21/01/2015(Xem: 9019)
Nguyên văn emai của một cư sĩ: Con có một thắc mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con. Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi: "Cái này có, cái kia có Cái này sinh, cái kia sinh Cái này không cái kia không Cái này diệt cái kia diệt" Theo chỗ con hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn được và không có ngoại lệ.
18/01/2015(Xem: 5218)
Cô công chúa trẻ nhất của lãnh chúa đang du hành từ nhà cô ở Kyoto tới thủ đô ở Edo thì trông thấy một người đàn bà bé nhỏ nằm bên vệ đường. Cô công chúa ra lệnh cho đoàn tùy tùng của mình ngừng lại và đỡ bà già lên, bà này gần chết vì lạnh lẽo và đói khát. Cô công chúa đã cứu sống người đàn bà và khi người khách này của cô đủ mạnh mẽ để có thể tự đi một mình, công chúa tặng cho bà ít tiền và chiếc khăn quàng ấm áp của cô. Người đàn bà biết ơn, trao cho công chúa một gói nhỏ và nói: “Xin nhận cái này.” Công chúa hỏi: “Đây là vật gì thế?” “Một cái gương thần kỳ.” “Cái gì khiến nó thành thần kỳ vậy?”
08/01/2015(Xem: 8294)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
26/12/2014(Xem: 6715)
Đức Phật dạy rằng nếu đem Đạo Pháp của Ngài đặt vào con tim của một người bình dị thì nhất định là nó sẽ bị biến dạng (saddhamma-patirupa; sad có nghĩa là đúng đắn, dhamma có nghĩa là Đạo Pháp, patipura có nghĩa là lệch lạc, do đó có thể hiểu các chữ saddhamman-patirupa là "Đạo Pháp đúng đắn không bị lệch lạc" hay bóp méo). Trái lại nếu đặt nó vào con tim của một Người Cao Quý (Kalyanamitta) (Kalyanamitta là một từ ghép; kalyana: đạo đức, nhân ái; mitta: bạn hữu, do đó có thể hiểu từ ghép này là "một người bạn đạo hạnh" hay một "người đồng hành đạo đức". Kinh sách bằng các ngôn ngữ Tây Phương thường dịch là Être Noble/Noble One. Kinh sách gốc Hán ngữ dịch là thiện trí thức/shàn zhīshì 善知識, thiết nghĩ cách dịch này không được thích nghi lắm bởi vì ngày nay rất khó hình dung ra những người "thiện trí thức" là những thành phần nào trong xã hội) thì nó sẽ trở nên tinh khiết, và sẽ không bao giờ phai mờ hay u tối.
11/12/2014(Xem: 5768)
Một thời là chữ bắt đầu của kinh Phật: “Một thời Phật tại nước Xá-vệ..”, “Một thời Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ-xà-quật…” (tạng Hán Bắc tông). “Một thời, Thế Tôn đang đi trên con đường…”, “Một thời Thế Tôn đang ở thành…”(tạng Pali Nam tông).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567