Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diệu Dụng của Bát Nhã

20/07/201101:03(Xem: 3917)
Diệu Dụng của Bát Nhã


Duc The Ton 1
DIỆU DỤNG CỦA BÁT NHÃ

Phước Tâm dịch

Việc đối nhân xử thế của chúng ta ở trong cõi đời này, đều cần coi trọng hiệu năng và công dụng. Tựa như kiếm tiền có ích gì, đọc sách có lợi gì? Kiếm tiền không những có thể giải quyết nhiều vấn đề trong đời sống, mà còn có thể tạo phước cho nhân quần xã hội; đọc sách có thể tăng thêm tri thức, hiểu thêm cách ứng xử giao tiếp, mai sau có thể lập nghiệp thành công. Cũng vậy, “Bát nhã” có diệu dụng gì đối với chúng ta? “Bát nhã” chính là trí tuệ và năng lực (trí năng), không chỉ dừng lại ở đấy, mà diệu dụng của nó còn có rất nhiều.

Ông Lương Khải Siêu (1873-1929) - nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị, nhà bình luận chính trị Trung Quốc cận đại - nói: “Tín ngưỡng của Phật giáo là trí tín, mà không phải là mê tín” (Phật giáo chi tín ngưỡng nãi trí tín, nhi phi mê tín - 佛教之信仰乃智信,而非迷信). Phật giáo là một tôn giáo lý tính (lý trí), pháp Phật là học vấn của trí năng, mà Bát nhã thì là đôi mắt của pháp Phật, vì vậy Bồ tát hành Lục độ Ba la mật(1), lấy Bát nhã làm đầu, như trong Đại trí độ luận nói: “Bát nhã là dẫn đường, ngũ độ là bầu bạn; nếu không có Bát nhã, thì ngũ độ như mù lòa” (Bát nhã vi đạo, ngũ độ vi ban; nhược vô Bát nhã, ngũ độ như mang - 般若為導,五度為伴;若無般若,五度如盲). Pháp thế gian nhờ Bát nhã mới có thể trở thành pháp xuất thế gian.

Vì vậy, “nếu bố thí mà không có Bát nhã, thì chỉ được phồn thịnh trong một đời, sau vẫn chịu nhiều tai ương; trì giới mà không có Bát nhã, tạm sinh lên dục giới(2), rồi lại đọa vào nê-lê”(3); nhẫn nhục mà không có Bát nhã, quả báo được hình đoan chính, nhưng không chứng được tịch diệt nhẫn(4); tinh tiến mà không có Bát nhã, thì chỉ hưng trong cõi sinh tử, không vươn tới biển chân thường; thiền định mà không có Bát nhã, chỉ bước tới Sắc giới thiền(5), không vào được Kim cang định; vạn hạnh mà không có Bát nhã, thì vẫn mãi nằm trong vòng tuần hoàn chi phối của nghiệp báo, không vươn tới được quả vô vi.

Nay nêu ra bốn điểm, xem Bát nhã đối với cuộc đời của mỗi một con người chúng ta có những diệu dụng gì:

Có thể tin tưởng chân lý

Con người không thể không có niềm tin, niềm tin chính là sức mạnh, nhưng tin nhầm đối tượng thì vấn đề trở nên rất nguy hiểm. Bát nhã có thể làm cho chúng ta tin đúng (chính tín) chân lý, nhận thức điều kiện chân lý, vì vậy mà chọn lựa sự tin tưởng và ngưỡng mộ chính xác.

Ví dụ:

Thứ nhất, tin tưởng chắc thật, rằng có những khảo chứng lịch sử: giáo chủ Phật giáo Thích Ca Mâu Ni Phật, trong lịch sử còn ghi chép, có quốc gia, cha mẹ nuôi nấng Ngài, cho đến quá trình tu hành của Ngài, thời gian, nơi sinh, di vật, đều có thể khảo chứng(6), Ngài là một vị Phật đà có thật.

Thứ hai, tin tưởng chắc thật, rằng có trí năng Bát nhã: Phật đà có năng lực giúp đỡ chúng sinh vượt qua mọi khổ ách. Phật đà từng nói: “Ta như lương y, biết bệnh cho thuốc, theo hay không theo, không phải lỗi của Ta vậy; Ta như người khéo chỉ đường, khuyên con người bước trên đường thiện, đi hay không đi, không phải lỗi của người hướng dẫn vậy” (Ngã như lương dược, phục dữ bất phục, phi y cữu dã; Ngã như thiện đạo, đạo nhân thiện lộ, nhữ chi bất hành, phi đạo quá dã - 我如良醫,知病說藥,服與不服,非醫咎也;我如善導,導人善路,汝之不行,非導過也). Ngài thực sự có năng lực có thể tiêu tai trừ nạn cho chúng sinh.

Thứ ba, tin tưởng chắc thật, rằng có từ bi đạo đức: Phật đà không chỉ có năng lực, tồn tại thực sự, pháp mà Ngài từng tuyên thuyết, Tăng đoàn mà Ngài từng lãnh đạo, dìu dắt, đều là trí năng, từ bi, đạo đức, thiện hành mỹ danh, truyền bá rộng khắp mười phương.

Có Bát nhã thì có thể biết rõ “tính phổ biến, tính tất nhiên, tính bình đẳng, tính nhân quả, tính duyên khởi, tính vĩnh hằng” của chân lý. Ví dụ nói, Phật giáo giảng “có sinh có tử”, “có nghiệp có báo”, điều này là chân lý bất biến, vĩnh viễn.

Thứ tư, tin tưởng chắc thật, rằng có khả năng tịnh hóa nhân tâm: có rất nhiều ngoại đạo, thường lấy phước họa chi phối ở trần gian, giáng tai chiêu ương để khống chế tín đồ, nhưng Phật giáo của niềm tin chắc thật thì chủ trương “vận mệnh” nằm gọn trong tầm tay của chính mình.

Có Bát nhã thì có thể hiểu được “ba pháp ấn”- chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tịnh, để ấn chứng chân lý.

Có thể thể chứng Bát nhã

Người xưa nói: “Nếu con người nhận ra được tính Bát nhã, thì hoa xuân trăng thu, khắp nơi đều là xuân”. Lại nói: “Túy trúc mượt mà không chỗ nào là không phải Bát nhã, hoa cúc ngào ngạt đâu đâu cũng là diệu đế”. Thế gian vũ trụ sum la vạn tượng này đều hiển hiện ra từ bên trong Bát nhã của tự tính chúng ta.

Cuối cùng cái gì gọi là Bát nhã? Cái gì thì là không phải là Bát nhã? Chỉ cần có khả năng làm cho chúng sinh khai ngộ, tất cả đều là Bát nhã, tỉ dụ Phật đà dạy Châu Lợi Bàn Đà Già rũ bẩn quét bụi, Châu Lợi Bàn Đà Già nhờ vậy mà khai ngộ, thì quét nhà, làm việc đều là Bát nhã; không có khả năng khiến cho chúng sinh giác ngộ, thì tất cả đều không phải là Bát nhã, ví dụ: người giảng ân cần, người nghe thờ ơ, thì Bát nhã nào có tác dụng gì?

Có một bà lão, mỗi sáng sớm đều đến tự viện lạy Phật, có một lần lễ Phật xong, lúc ngang qua bậc thềm tự viện, không cẩn thận bị té nhào vào một đống đồ đạc, một âm thanh vang lên cái “chít”, như là tiếng kêu của một chú nhái, lòng nghĩ: “Ta đi lạy Phật cầu công đức, sao không cẩn thận đã sát sinh rồi!” Sau khi về nhà, mãi cứ buồn phiền ân hận. Thế là về đến tự viện, mời Pháp sư tụng kinh siêu độ cho chú nhái kia. Pháp sư vừa nghe, liền dẫn bà lão đến bậc thềm vừa xem, thì ra không phải là chú nhái, mà là một trái cà bị giẫm nát, trong phút chốc, bóng tối, tội lỗi và sự bất an trong tâm bà lão đều tan biến.

Công dụng của Bát nhã chính là cần chúng ta nhận rõ chân tướng của sự việc, không nên vì tướng giả mê hoặc mà suy hơn tính thiệt.

Có thể nhận chân giá trị

Bát nhã có tác dụng gì? Có Bát nhã thì có thể nhận chân được giá trị của đời người. Giá trị Bát nhã không có ngôn ngữ văn tự nào có thể nói hết. Thơ nói: “Ánh trăng trước cửa sổ vẫn là ánh trăng bình thường ngày nào, nhưng bởi vì hôm nay có sự tô điểm của hoa mai, nên ánh trăng ấy đã cho người ta một sự cảm nhận khác lạ” (Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, tài hữu mai hoa tiện bất đồng - 尋常一樣窗前月,才有梅花便不同).

Ăn - mặc - đi - ở như xưa, nhưng nếu có Bát nhã, thì giá trị sẽ khác nhau. Ví dụ nói, mặc áo, không nhất định phải là lĩnh, là, lụa, đoạn đủ hàng tơ lụa, mà chỉ cần vải thô áo chiếc thanh nhã giản dị, càng có thể triển hiện khí chất phi phàm; ăn uống, không nhất định phải sơn hào hải vị, mãn hán toàn tịch, mà chỉ cần nước trong rễ trái thanh đạm, rau xanh quả chín, nhai kỹ, cũng có thể tốt hơn các món ăn quý lạ; cư trú, không cần phải biệt thự to lớn, sống trong khu nhà ở dân cư, càng có thể tăng thêm quan hệ hữu nghị, thể hội mối quan hệ giữa người với ta - một đóa hoa, một chiếc lá, một Như lai.

Người hiện đại khi ra khỏi nhà, giao thông đi lại, phần lớn dùng xe hơi, xe gắn máy thay cho đi bộ, nhưng tác dụng thì ngược lại, khiến cho cơ năng thân thể thoái hóa, xấu đi, có Bát nhã thì không như thế, từng bước chậm rãi thay ngồi xe, không chỉ có thể giảm bớt ô nhiễm môi trường, càng có thể lưu lại cho mình khoảnh khắc thảnh thơi, nhàn tình.

Đời người trong cuộc sống hiện thực, hàng ngày sớm đi tối về, công việc vất vả bộn bề, nhưng từ đầu đến cuối, kết cục lại không biết vì sao mình lại vất vả bận rộn. Có Bát nhã, bận rộn, tất có ý nghĩa của bận rộn; hiến dâng, tất có giá trị của hiến dâng, từ đây, đời người không giống như những ngày trước kia nữa.

Vì vậy, giá trị diệu dụng của Bát nhã, ở chỗ có thể cải thiện đời sống của chúng ta, tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao cảnh giới nhân sinh chúng ta.

Có thể ví von: Bát nhã như chiếc “cầu nối”, “Bát nhã” có thể chở tất cả chúng sinh đến bến bờ bên kia; Bát nhã như cây “dao bén”, có thể chặt gãy mọi phiền não nghiệp thức; Bát nhã như “ánh sáng”, có thể rọi thủng lậu tập vô minh nhiều kiếp đến nay; Bát nhã như “con mắt”, là căn nguyên của tất cả công đức thiện pháp; Bát nhã như “mẹ hiền”, chư Phật, Bồ tát, hạnh nhân nhị thừa(7), hành giả nhân gian, không vị nào không từ Bát nhã mà chứng ngộ chân lý, cho nên lại gọi là “mẹ của chư Phật ba đời”.

Có thể sinh hoạt tự tại

Xưa kia, Phật đà ngồi trên tòa kim cương dưới cội bồ đề, lúc sao mai xuất hiện, thì Ngài chứng ngộ, đó chính là Bát nhã; trên hội Linh sơn, Phật đà nâng trên tay một đóa hoa, Ca Diếp mỉm cười, chính là Bát nhã tương ưng; Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thiền tông nói pháp cho Huệ Năng, ngay sau đó thì rõ tâm thấy tính (minh tâm kiến tính), cũng là Bát nhã; Đề Bà cầu kiến Bồ tát Long Thọ, quăng cây kim vào trong bát nước đầy(8), điều khế nhập ấy cũng là Bát nhã.

Vì lẽ gì Bát nhã có thể có được diệu dụng như vậy? Gọi là “trong cõi chân như, vắng bặt sự giả danh của chúng sinh và Phật; trong tính bình đẳng, không hiện hữu hình tượng mình và người. Trong đại trí năng Bát nhã, thời gian và không gian thống nhất, sự đối đãi sai biệt tan biến, khoảng cách người và ta mất hẳn, tri thức học vấn của thế gian chuyển đổi thành chân lý xuất thế gian, tình cảm cố chấp thăng hoa thành đại từ bi đối với tất cả chúng sinh, tâm ý không bị khổ lạc chi phối khuấy động, sức mạnh chỉ ác hướng thiện cũng được tăng thêm.

Vì vậy, đời người nếu có Bát nhã, thì có thể sống tự tại, mặc cho gặp lắm tai vạ gian truân, đều có thể làm chủ được các cảm xúc ngay trong từng niệm, gặp vui không thích, gặp khổ không buồn. Khéo dùng tư tưởng Bát nhã, thì có thể biến bà lão khóc thành bà lão cười(9), chỉ cần trong một chuyển niệm, thì đời người gian khổ liền có thể biến thành đời người của Bát nhã. Dùng Bát nhã đối xử với con người, thì bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, không có sự cần thiết tính toán, so bì. Dùng Bát nhã sinh hoạt, thì có thể có có thể không, có thể trước có thể sau, có thể nhiều có thể ít. Dùng Bát nhã làm việc, cắm hoa, thế hoa ý cảnh sẽ khác thường, xinh đẹp; nấu ăn, mùi thơm của món ăn không như ngày thường, thơm và ngon hơn; nói chuyện, phong cách lời lẽ đặc biệt hơn. Đã có Bát nhã, thì cõi lòng rộng mở, thênh thang, đời người còn gì hạnh phúc tự tại bằng! 

(Theo 星雲,《佛學教科書》,上海:上海辭書出版社,2008年,頁105-109 - Tinh Vân (2008), Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, tr.105-109)

(Nguyệt San Giác Ngộ số 184)

(1)Ba-la-mật(波羅蜜, dịch là độ (đi qua, trôi qua), ý là đáo bỉ ngạn (đến bến bờ bên kia, hàm chỉ giải thoát mọi muộn phiền, áo não). Lục độ là sáu phép tu mà một Bồ tát trong Đại thừa Phật giáo muốn thành Phật đạo thì cần phải thực hiện/hành, ấy là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định và Bát nhã.

(2)Chỉ trời lục dục(六欲天). Căn cứ Phiên dịch danh nghĩa tập (quyển 3), nêu ba điều ham muốn (dục) của cõi dục phàm phu, một là ẩm thực dục (ham muốn ăn uống), tức phàm phu ham thích ăn uống nhiều của ngon vật lạ, tâm sinh nhiều tham ái; hai là thụy miên dục (ham muốn ngủ nghỉ), tức tâm phàm phu ám tắc đen tối, đắm mình trong ngủ nghỉ mà không thể siêng năng tu đạo nghiệp; ba là dâm dục (ham muốn dâm đãng), tức tất cả nam nữ do tham nhiễm qua lại nhau, mà khởi tạo các loại ham muốn. Vì vậy, tuy sinh lên cõi trời, vẫn còn chưa thể tránh được phiền não và cái khổ luân hồi sinh tử.

(3) Nê-lê(泥犁), tức chỉ địa ngục.

(4)Tất cả mê hoặc đoạn tận, thanh tịnh vô vi, cảnh giới trạm nhiên tịch diệt.

(5)Sắc giới (色界) là thế giới có tịnh diệu sắc chất và là tên gọi chung của chúng sinh ấy, ở vào phía trên “dục giới”, là chỗ ở của trời người. Giới này dựa vào thứ lớp sâu cạn nhập định mà chia làm tứ địa, gọi là tứ thiền thiên, chúng sinh ở đó mặc dù xa rời dâm dục, không dính kẹt vào sắc pháp uế ác, song vẫn bị sắc pháp vi tế thanh tịnh ràng buộc, vẫn chưa giải thoát triệt để.

(6)Phật đà vốn là Thái tử con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tì La Vệ, thuộc Bắc Ấn Độ, tên là Tất ĐạT Đa. Mẹ là phu nhân Ma Da, công chúa tộc Cư Lị, nước láng giềng. Liên quan về sự tích cuộc đời Phật đà, từ cổ chí kim, từ trong nước đến ngoài nước đều có sử liệu, trước thuật ghi chép.

(7)Chỉ Nhị thừa Thanh văn và Duyên giác.

(8Đề Bà ngưỡng mộ uy danh Long Thọ, đến núi Kiết Tường nước Kiều Tát La Ấn Độ, chuẩn bị triển khai một trận luận biện với Long Thọ. Long Thọ từ lâu đã nghe trí năng biện tài của Đề Bà, chỉ thị thị giả mang một bát nước ra tương tiếp, Đề Bà thấy dáng, lặng thinh không nói gì, lấy ra một cây kim ném vào trong nước, Long Thọ tức thì ấn khả (ấn chứng đồng ý) Đề Bà. Long Thọ dùng bát nước tượng trưng Phật tính tự thân đầy đủ, đầy mà không tràn, Đề Bà thì lấy cây kim thuyết minh rằng pháp vốn như vậy, rõ mồn một.

(9)Có một bà lão có hai đứa con gái, đứa con gái lớn gả cho người bán dù, đứa con gái nhỏ gả cho người bán mì sợi. Mỗi lúc bà già nhìn thấy mặt trời mọc, thì lo lắng đến chảy nước mắt, lo cho đứa con gái lớn dù không có ai mua; khi lúc trời đổ mưa, thì bà vẫn cứ khóc lóc, bởi vì lo lắng mì của đứa con gái nhỏ phơi không khô, bán không được. Vậy là, bà lão ngày ngày đều khóc, trở thành bà lão khóc. Có một lần, một vị Thiền sư khuyên bảo: “Trời trong thì nghĩ đến sợi mì của đứa con gái nhỏ, trời mưa thì nghĩ đến tiệm dù của đứa con gái lớn, thì tâm tình tự nhiên sẽ cảm thấy vui vẻ”. Từ đây, bà lão khóc biến thành bà lão cười.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/10/2018(Xem: 4391)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 9287)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 7581)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
13/08/2018(Xem: 7527)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
23/05/2018(Xem: 4271)
Bài viết này để trả lời một vài câu hỏi nhận được gần đây. Nếu giúp được một số độc giả, xin hồi hướng công đức từ bài viết để Phật pháp trường tồn. Trường hợp các câu trả lời bất toàn hay sơ sót, người viết, với vốn học và vốn tu đều kém cỏi, xin lắng nghe quý tôn đức chỉ dạy thêm.
10/03/2018(Xem: 10370)
To give the briefest conclusion that I can think of to the question- 'Do you think that sectarian diversity affects the stability of Buddhism as a whole?', I would have to say, 'Yes' and 'No'. My intention here is not to give a definitive answer, but to give readers 'food for thought', to enable each of us to be responsible and maintain pure intentions, to think for ourselves and develop genuine wisdom and compassion. In the spirit of the Dharma, rather than dwelling on any possible problems, we should mainly focus on solutions to any such problems. With the hope of maintaining the integrity and purity of Buddhism in this world.
03/02/2018(Xem: 17067)
Tương quan là có quan hệ qua lại với nhau, tương cận là mối tương quan gần gủi nhất. Vấn đề này, mang tính tương tác mà trong Phật giáo gọi là: “cái này có thì cái kia có, cái này sinh thi cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt…”
06/01/2018(Xem: 15836)
Vài suy nghĩ về việc học chữ Phạn trong các Học Viện Phật Giáo Việt Nam_ Lê Tự Hỷ
08/12/2017(Xem: 18975)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
19/11/2017(Xem: 8338)
Tình, Tưởng. Cả hai đều thuộc về phạm trù của Tâm con người, không có ở trong các loài súc sinh, mặc dù súc sinh có cái biết bằng Giác (giác hồn, sinh hồn) nhưng, không tinh khôn bằng loài người, do Phật tánh bị chìm sâu bởi thú tính cao vời. Chỉ có loài người, Phật tánh được hiện hữu ở ba cấp thượng, trung, hạ, cho nên loài người là linh vật, chúa tể của muôn loài có khả năng dời núi, lấp sông do bởi cái tâm có tánh giác tinh anh Phật, Bồ Tát, Thánh, Phàm. Nói khác hơn, con người chỉ có một tâm nhưng, nó tự chia ra hai phần : Chủ tể và phụ tể. Nói theo Duy Thức Học; là Tâm vương, Tâm sở. Vai trò của Tâm vương là chủ động tạo tác ra vô số lời nói, hành động thiện, ác. Vai trò Tâm sở là duy trì, bảo vệ những thành quả (sở hữu) mà cũng chính nó tức tâm vương đã sáng tạo ra. Nghĩa là cái Tâm con người, nó vừa tạo tác ra các nghiệp, lại vừa đóng vai
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]