Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diệu Dụng của Bát Nhã

20/07/201101:03(Xem: 3175)
Diệu Dụng của Bát Nhã


Duc The Ton 1
DIỆU DỤNG CỦA BÁT NHÃ

Phước Tâm dịch

Việc đối nhân xử thế của chúng ta ở trong cõi đời này, đều cần coi trọng hiệu năng và công dụng. Tựa như kiếm tiền có ích gì, đọc sách có lợi gì? Kiếm tiền không những có thể giải quyết nhiều vấn đề trong đời sống, mà còn có thể tạo phước cho nhân quần xã hội; đọc sách có thể tăng thêm tri thức, hiểu thêm cách ứng xử giao tiếp, mai sau có thể lập nghiệp thành công. Cũng vậy, “Bát nhã” có diệu dụng gì đối với chúng ta? “Bát nhã” chính là trí tuệ và năng lực (trí năng), không chỉ dừng lại ở đấy, mà diệu dụng của nó còn có rất nhiều.

Ông Lương Khải Siêu (1873-1929) - nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị, nhà bình luận chính trị Trung Quốc cận đại - nói: “Tín ngưỡng của Phật giáo là trí tín, mà không phải là mê tín” (Phật giáo chi tín ngưỡng nãi trí tín, nhi phi mê tín - 佛教之信仰乃智信,而非迷信). Phật giáo là một tôn giáo lý tính (lý trí), pháp Phật là học vấn của trí năng, mà Bát nhã thì là đôi mắt của pháp Phật, vì vậy Bồ tát hành Lục độ Ba la mật(1), lấy Bát nhã làm đầu, như trong Đại trí độ luận nói: “Bát nhã là dẫn đường, ngũ độ là bầu bạn; nếu không có Bát nhã, thì ngũ độ như mù lòa” (Bát nhã vi đạo, ngũ độ vi ban; nhược vô Bát nhã, ngũ độ như mang - 般若為導,五度為伴;若無般若,五度如盲). Pháp thế gian nhờ Bát nhã mới có thể trở thành pháp xuất thế gian.

Vì vậy, “nếu bố thí mà không có Bát nhã, thì chỉ được phồn thịnh trong một đời, sau vẫn chịu nhiều tai ương; trì giới mà không có Bát nhã, tạm sinh lên dục giới(2), rồi lại đọa vào nê-lê”(3); nhẫn nhục mà không có Bát nhã, quả báo được hình đoan chính, nhưng không chứng được tịch diệt nhẫn(4); tinh tiến mà không có Bát nhã, thì chỉ hưng trong cõi sinh tử, không vươn tới biển chân thường; thiền định mà không có Bát nhã, chỉ bước tới Sắc giới thiền(5), không vào được Kim cang định; vạn hạnh mà không có Bát nhã, thì vẫn mãi nằm trong vòng tuần hoàn chi phối của nghiệp báo, không vươn tới được quả vô vi.

Nay nêu ra bốn điểm, xem Bát nhã đối với cuộc đời của mỗi một con người chúng ta có những diệu dụng gì:

Có thể tin tưởng chân lý

Con người không thể không có niềm tin, niềm tin chính là sức mạnh, nhưng tin nhầm đối tượng thì vấn đề trở nên rất nguy hiểm. Bát nhã có thể làm cho chúng ta tin đúng (chính tín) chân lý, nhận thức điều kiện chân lý, vì vậy mà chọn lựa sự tin tưởng và ngưỡng mộ chính xác.

Ví dụ:

Thứ nhất, tin tưởng chắc thật, rằng có những khảo chứng lịch sử: giáo chủ Phật giáo Thích Ca Mâu Ni Phật, trong lịch sử còn ghi chép, có quốc gia, cha mẹ nuôi nấng Ngài, cho đến quá trình tu hành của Ngài, thời gian, nơi sinh, di vật, đều có thể khảo chứng(6), Ngài là một vị Phật đà có thật.

Thứ hai, tin tưởng chắc thật, rằng có trí năng Bát nhã: Phật đà có năng lực giúp đỡ chúng sinh vượt qua mọi khổ ách. Phật đà từng nói: “Ta như lương y, biết bệnh cho thuốc, theo hay không theo, không phải lỗi của Ta vậy; Ta như người khéo chỉ đường, khuyên con người bước trên đường thiện, đi hay không đi, không phải lỗi của người hướng dẫn vậy” (Ngã như lương dược, phục dữ bất phục, phi y cữu dã; Ngã như thiện đạo, đạo nhân thiện lộ, nhữ chi bất hành, phi đạo quá dã - 我如良醫,知病說藥,服與不服,非醫咎也;我如善導,導人善路,汝之不行,非導過也). Ngài thực sự có năng lực có thể tiêu tai trừ nạn cho chúng sinh.

Thứ ba, tin tưởng chắc thật, rằng có từ bi đạo đức: Phật đà không chỉ có năng lực, tồn tại thực sự, pháp mà Ngài từng tuyên thuyết, Tăng đoàn mà Ngài từng lãnh đạo, dìu dắt, đều là trí năng, từ bi, đạo đức, thiện hành mỹ danh, truyền bá rộng khắp mười phương.

Có Bát nhã thì có thể biết rõ “tính phổ biến, tính tất nhiên, tính bình đẳng, tính nhân quả, tính duyên khởi, tính vĩnh hằng” của chân lý. Ví dụ nói, Phật giáo giảng “có sinh có tử”, “có nghiệp có báo”, điều này là chân lý bất biến, vĩnh viễn.

Thứ tư, tin tưởng chắc thật, rằng có khả năng tịnh hóa nhân tâm: có rất nhiều ngoại đạo, thường lấy phước họa chi phối ở trần gian, giáng tai chiêu ương để khống chế tín đồ, nhưng Phật giáo của niềm tin chắc thật thì chủ trương “vận mệnh” nằm gọn trong tầm tay của chính mình.

Có Bát nhã thì có thể hiểu được “ba pháp ấn”- chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tịnh, để ấn chứng chân lý.

Có thể thể chứng Bát nhã

Người xưa nói: “Nếu con người nhận ra được tính Bát nhã, thì hoa xuân trăng thu, khắp nơi đều là xuân”. Lại nói: “Túy trúc mượt mà không chỗ nào là không phải Bát nhã, hoa cúc ngào ngạt đâu đâu cũng là diệu đế”. Thế gian vũ trụ sum la vạn tượng này đều hiển hiện ra từ bên trong Bát nhã của tự tính chúng ta.

Cuối cùng cái gì gọi là Bát nhã? Cái gì thì là không phải là Bát nhã? Chỉ cần có khả năng làm cho chúng sinh khai ngộ, tất cả đều là Bát nhã, tỉ dụ Phật đà dạy Châu Lợi Bàn Đà Già rũ bẩn quét bụi, Châu Lợi Bàn Đà Già nhờ vậy mà khai ngộ, thì quét nhà, làm việc đều là Bát nhã; không có khả năng khiến cho chúng sinh giác ngộ, thì tất cả đều không phải là Bát nhã, ví dụ: người giảng ân cần, người nghe thờ ơ, thì Bát nhã nào có tác dụng gì?

Có một bà lão, mỗi sáng sớm đều đến tự viện lạy Phật, có một lần lễ Phật xong, lúc ngang qua bậc thềm tự viện, không cẩn thận bị té nhào vào một đống đồ đạc, một âm thanh vang lên cái “chít”, như là tiếng kêu của một chú nhái, lòng nghĩ: “Ta đi lạy Phật cầu công đức, sao không cẩn thận đã sát sinh rồi!” Sau khi về nhà, mãi cứ buồn phiền ân hận. Thế là về đến tự viện, mời Pháp sư tụng kinh siêu độ cho chú nhái kia. Pháp sư vừa nghe, liền dẫn bà lão đến bậc thềm vừa xem, thì ra không phải là chú nhái, mà là một trái cà bị giẫm nát, trong phút chốc, bóng tối, tội lỗi và sự bất an trong tâm bà lão đều tan biến.

Công dụng của Bát nhã chính là cần chúng ta nhận rõ chân tướng của sự việc, không nên vì tướng giả mê hoặc mà suy hơn tính thiệt.

Có thể nhận chân giá trị

Bát nhã có tác dụng gì? Có Bát nhã thì có thể nhận chân được giá trị của đời người. Giá trị Bát nhã không có ngôn ngữ văn tự nào có thể nói hết. Thơ nói: “Ánh trăng trước cửa sổ vẫn là ánh trăng bình thường ngày nào, nhưng bởi vì hôm nay có sự tô điểm của hoa mai, nên ánh trăng ấy đã cho người ta một sự cảm nhận khác lạ” (Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, tài hữu mai hoa tiện bất đồng - 尋常一樣窗前月,才有梅花便不同).

Ăn - mặc - đi - ở như xưa, nhưng nếu có Bát nhã, thì giá trị sẽ khác nhau. Ví dụ nói, mặc áo, không nhất định phải là lĩnh, là, lụa, đoạn đủ hàng tơ lụa, mà chỉ cần vải thô áo chiếc thanh nhã giản dị, càng có thể triển hiện khí chất phi phàm; ăn uống, không nhất định phải sơn hào hải vị, mãn hán toàn tịch, mà chỉ cần nước trong rễ trái thanh đạm, rau xanh quả chín, nhai kỹ, cũng có thể tốt hơn các món ăn quý lạ; cư trú, không cần phải biệt thự to lớn, sống trong khu nhà ở dân cư, càng có thể tăng thêm quan hệ hữu nghị, thể hội mối quan hệ giữa người với ta - một đóa hoa, một chiếc lá, một Như lai.

Người hiện đại khi ra khỏi nhà, giao thông đi lại, phần lớn dùng xe hơi, xe gắn máy thay cho đi bộ, nhưng tác dụng thì ngược lại, khiến cho cơ năng thân thể thoái hóa, xấu đi, có Bát nhã thì không như thế, từng bước chậm rãi thay ngồi xe, không chỉ có thể giảm bớt ô nhiễm môi trường, càng có thể lưu lại cho mình khoảnh khắc thảnh thơi, nhàn tình.

Đời người trong cuộc sống hiện thực, hàng ngày sớm đi tối về, công việc vất vả bộn bề, nhưng từ đầu đến cuối, kết cục lại không biết vì sao mình lại vất vả bận rộn. Có Bát nhã, bận rộn, tất có ý nghĩa của bận rộn; hiến dâng, tất có giá trị của hiến dâng, từ đây, đời người không giống như những ngày trước kia nữa.

Vì vậy, giá trị diệu dụng của Bát nhã, ở chỗ có thể cải thiện đời sống của chúng ta, tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao cảnh giới nhân sinh chúng ta.

Có thể ví von: Bát nhã như chiếc “cầu nối”, “Bát nhã” có thể chở tất cả chúng sinh đến bến bờ bên kia; Bát nhã như cây “dao bén”, có thể chặt gãy mọi phiền não nghiệp thức; Bát nhã như “ánh sáng”, có thể rọi thủng lậu tập vô minh nhiều kiếp đến nay; Bát nhã như “con mắt”, là căn nguyên của tất cả công đức thiện pháp; Bát nhã như “mẹ hiền”, chư Phật, Bồ tát, hạnh nhân nhị thừa(7), hành giả nhân gian, không vị nào không từ Bát nhã mà chứng ngộ chân lý, cho nên lại gọi là “mẹ của chư Phật ba đời”.

Có thể sinh hoạt tự tại

Xưa kia, Phật đà ngồi trên tòa kim cương dưới cội bồ đề, lúc sao mai xuất hiện, thì Ngài chứng ngộ, đó chính là Bát nhã; trên hội Linh sơn, Phật đà nâng trên tay một đóa hoa, Ca Diếp mỉm cười, chính là Bát nhã tương ưng; Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thiền tông nói pháp cho Huệ Năng, ngay sau đó thì rõ tâm thấy tính (minh tâm kiến tính), cũng là Bát nhã; Đề Bà cầu kiến Bồ tát Long Thọ, quăng cây kim vào trong bát nước đầy(8), điều khế nhập ấy cũng là Bát nhã.

Vì lẽ gì Bát nhã có thể có được diệu dụng như vậy? Gọi là “trong cõi chân như, vắng bặt sự giả danh của chúng sinh và Phật; trong tính bình đẳng, không hiện hữu hình tượng mình và người. Trong đại trí năng Bát nhã, thời gian và không gian thống nhất, sự đối đãi sai biệt tan biến, khoảng cách người và ta mất hẳn, tri thức học vấn của thế gian chuyển đổi thành chân lý xuất thế gian, tình cảm cố chấp thăng hoa thành đại từ bi đối với tất cả chúng sinh, tâm ý không bị khổ lạc chi phối khuấy động, sức mạnh chỉ ác hướng thiện cũng được tăng thêm.

Vì vậy, đời người nếu có Bát nhã, thì có thể sống tự tại, mặc cho gặp lắm tai vạ gian truân, đều có thể làm chủ được các cảm xúc ngay trong từng niệm, gặp vui không thích, gặp khổ không buồn. Khéo dùng tư tưởng Bát nhã, thì có thể biến bà lão khóc thành bà lão cười(9), chỉ cần trong một chuyển niệm, thì đời người gian khổ liền có thể biến thành đời người của Bát nhã. Dùng Bát nhã đối xử với con người, thì bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, không có sự cần thiết tính toán, so bì. Dùng Bát nhã sinh hoạt, thì có thể có có thể không, có thể trước có thể sau, có thể nhiều có thể ít. Dùng Bát nhã làm việc, cắm hoa, thế hoa ý cảnh sẽ khác thường, xinh đẹp; nấu ăn, mùi thơm của món ăn không như ngày thường, thơm và ngon hơn; nói chuyện, phong cách lời lẽ đặc biệt hơn. Đã có Bát nhã, thì cõi lòng rộng mở, thênh thang, đời người còn gì hạnh phúc tự tại bằng! 

(Theo 星雲,《佛學教科書》,上海:上海辭書出版社,2008年,頁105-109 - Tinh Vân (2008), Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, tr.105-109)

(Nguyệt San Giác Ngộ số 184)

(1)Ba-la-mật(波羅蜜, dịch là độ (đi qua, trôi qua), ý là đáo bỉ ngạn (đến bến bờ bên kia, hàm chỉ giải thoát mọi muộn phiền, áo não). Lục độ là sáu phép tu mà một Bồ tát trong Đại thừa Phật giáo muốn thành Phật đạo thì cần phải thực hiện/hành, ấy là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định và Bát nhã.

(2)Chỉ trời lục dục(六欲天). Căn cứ Phiên dịch danh nghĩa tập (quyển 3), nêu ba điều ham muốn (dục) của cõi dục phàm phu, một là ẩm thực dục (ham muốn ăn uống), tức phàm phu ham thích ăn uống nhiều của ngon vật lạ, tâm sinh nhiều tham ái; hai là thụy miên dục (ham muốn ngủ nghỉ), tức tâm phàm phu ám tắc đen tối, đắm mình trong ngủ nghỉ mà không thể siêng năng tu đạo nghiệp; ba là dâm dục (ham muốn dâm đãng), tức tất cả nam nữ do tham nhiễm qua lại nhau, mà khởi tạo các loại ham muốn. Vì vậy, tuy sinh lên cõi trời, vẫn còn chưa thể tránh được phiền não và cái khổ luân hồi sinh tử.

(3) Nê-lê(泥犁), tức chỉ địa ngục.

(4)Tất cả mê hoặc đoạn tận, thanh tịnh vô vi, cảnh giới trạm nhiên tịch diệt.

(5)Sắc giới (色界) là thế giới có tịnh diệu sắc chất và là tên gọi chung của chúng sinh ấy, ở vào phía trên “dục giới”, là chỗ ở của trời người. Giới này dựa vào thứ lớp sâu cạn nhập định mà chia làm tứ địa, gọi là tứ thiền thiên, chúng sinh ở đó mặc dù xa rời dâm dục, không dính kẹt vào sắc pháp uế ác, song vẫn bị sắc pháp vi tế thanh tịnh ràng buộc, vẫn chưa giải thoát triệt để.

(6)Phật đà vốn là Thái tử con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tì La Vệ, thuộc Bắc Ấn Độ, tên là Tất ĐạT Đa. Mẹ là phu nhân Ma Da, công chúa tộc Cư Lị, nước láng giềng. Liên quan về sự tích cuộc đời Phật đà, từ cổ chí kim, từ trong nước đến ngoài nước đều có sử liệu, trước thuật ghi chép.

(7)Chỉ Nhị thừa Thanh văn và Duyên giác.

(8Đề Bà ngưỡng mộ uy danh Long Thọ, đến núi Kiết Tường nước Kiều Tát La Ấn Độ, chuẩn bị triển khai một trận luận biện với Long Thọ. Long Thọ từ lâu đã nghe trí năng biện tài của Đề Bà, chỉ thị thị giả mang một bát nước ra tương tiếp, Đề Bà thấy dáng, lặng thinh không nói gì, lấy ra một cây kim ném vào trong nước, Long Thọ tức thì ấn khả (ấn chứng đồng ý) Đề Bà. Long Thọ dùng bát nước tượng trưng Phật tính tự thân đầy đủ, đầy mà không tràn, Đề Bà thì lấy cây kim thuyết minh rằng pháp vốn như vậy, rõ mồn một.

(9)Có một bà lão có hai đứa con gái, đứa con gái lớn gả cho người bán dù, đứa con gái nhỏ gả cho người bán mì sợi. Mỗi lúc bà già nhìn thấy mặt trời mọc, thì lo lắng đến chảy nước mắt, lo cho đứa con gái lớn dù không có ai mua; khi lúc trời đổ mưa, thì bà vẫn cứ khóc lóc, bởi vì lo lắng mì của đứa con gái nhỏ phơi không khô, bán không được. Vậy là, bà lão ngày ngày đều khóc, trở thành bà lão khóc. Có một lần, một vị Thiền sư khuyên bảo: “Trời trong thì nghĩ đến sợi mì của đứa con gái nhỏ, trời mưa thì nghĩ đến tiệm dù của đứa con gái lớn, thì tâm tình tự nhiên sẽ cảm thấy vui vẻ”. Từ đây, bà lão khóc biến thành bà lão cười.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2014(Xem: 4988)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5049)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5058)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 5712)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4587)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4474)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 14455)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
16/09/2014(Xem: 18056)
Trên ngực Phật, hay trên những trang kinh của Phật, ta thường thấy có chữ VẠN. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy có hai lối viết khác hẵn: Một là, “chữ vạn” hướng xoay theo chiều kim đồng hồ (lối viết A); hai là”chữ vạn” xoay ngươc chiều kim đồng hồ (lối viết B)
15/08/2014(Xem: 12002)
Tánh biết tham lam vật chất ,ích kỷ,vị tha,nhân quả,,ăn năn ,sám hối, thương yêu, ghét bỏ, sợ hãi, buồn tênh, v.v… của muôn loài hữu tình chúng sinh nói chung, con người nói riêng được hiển lộ ra ngoài thân ở lời nói và hành động trong đời sống hằng ngày.Tánh biết này,được các nhà ngôn ngữ cổ đại Trung Quốc gọi là Tâm.Từ đó cho đến nay người Trung Quốc và Việt Nam đều nói là tâm, một khi đề cập đến sự biết của các loài hữu tình chúng sinh,và con người.
06/08/2014(Xem: 4659)
Thiền sư Động Sơn Lương Giới Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông Tào Động ở Trung Hoa. Khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài ta mới thấy ý chí người xưa. Lá thư thứ nhất: “Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở che. Song, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa sanh diệt. Ân bú sú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, dù đem của cải thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không được bền lâu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567