Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ “Không” Trong Nhà Phật

16/05/201102:11(Xem: 3715)
Chữ “Không” Trong Nhà Phật
CHỮ “KHÔNG” TRONG NHÀ PHẬT
Lê Sỹ Minh Tùng

chukhongtrongnhaphatTrong Phật giáo thiền được xem là pháp môn phổ biến của đạo Phật, nhưng trên thực tếthiền được áp dụng trong tất cả mọi sinh hoạt của cuộc sống mà con người khônghề để ý đến. Thí dụ trong các lãnh vực khoa học hiện đại thì danh từ thiền đượchiểu là sự nghiên cứu để vận dụng tất cả mọi tư duy từng giai đoạn với mục đíchtìm ra phương thức ứng dụng để phục vụ cho đời sống con người. Nếu sự nghiên cứunày có kết quả rốt ráo, thành tựu mỹ mãn có thể đem ra ứng dụng làm lợi ích chocuộc đời thì sự nghiên cứu đó được gọi là “phát minh”. Nhưng tất cả những sựphát minh của khoa học, kỷ thuật là để phục vụ con người đối với thế giới vậtchất để có cuộc sống dễ dàng, tiện nghi và đưa con người gần gủi với nhau hơn.Thí dụ khi các khoa học gia khám phá và phóng những vệ tinh vào quỷ đạo của địacầu nên ngày nay ai ai cũng có điện thoại di động, có thể xem trực tiếp truyềnhình trận đá banh vô địch thế giới trên TV ở bất cứ nơi nào. Chẳng hạn có một vịbác sĩ trước khi cho thuốc thì phải suy tư, thẩm xét để suy tìm ra căn bệnh củathân chủ mình do vậy chính vị bác sĩ này hằng ngày đã vô tình vào thiền định rấtnhiều lần mà không hề hay biết. Một học sinh đang suy nghĩ để tìm cách giải mộtphương trình toán học, một bà nội trợ đang suy nghĩ phải nấu món ăn gì cho bửa cơmgia đình tối nay. Tóm lại thiền là sự tư duy, quán chiếu để thấu biết rốt ráo mộtđối tượng nào.

Tuthiền trong Phật giáo cũng vậy, nhưng thay vì tư duy, quán chiếu để tìm nhữngphát minh cho thế giới vật chất thì hành giả xoay ngược vào tâm để thấy biếtcon người thật của mình. Có vào trong thiền định hành giả mới có thể thật sự sốngtrong tỉnh thức của tánh giác của mình để biết thấu suốt thế gian là vô thường,khổ, không và bất tịnh. Cho dù hành giả tu theo thiền Tứ Niệm Xứ (thiền minhsát,), tổ sư thiền (Như Lai thanh tịnh thiền) thì cứu cánh tối hậu vẫn là phátminh về mặt trí tuệ. Cũng như nếu một khoa học gia cả đời tận tụy nghiên cứu màcuối cùng không tìm ra được một phát minh nào thì sự nghiên cứu kia cũng khôngđến đâu cả, không có lợi ích gì cho mình và cho đời. Do đó dựa theo tinh thần đạoPhật thì thiền định phải phát sinh trí tuệ để nhận biết thấu suốt thật tướng củanhân sinh vũ trụ. Tâm của chúng sinh ví như ngọn đèn vốn sáng tỏ, nhưng vì gióvọng trần lay động làm ánh sáng lý trí bị lu mờ. Bây giờ nếu đi vào thiền địnhví cũng như chụp cái bóng che gió vào thì ngọn đèn tâm bây giờ sẽ bừng sáng tứclà có định thì trí tuệ sẽ phát sinh.

Bâygiờ dưới cái nhìn của Phật giáo nguyên thủy thì tam pháp ấn “Vô thường, khổ, vôngã” là những chất liệu chính để giúp họ vượt thoát ra khỏi sinh tử mà đạt đếncứu cánh tột đỉnh là thanh tịnh Niết bàn. Họ dùng “Tích không quán” để quán rằngthế gian vô thường, tứ đại khổ, không và ngũ uẩn vô ngã (ngũ uẩn là sắc, thọ,tưởng, hành, thức của đại thừa và cũng chínhlà thân, thọ, tâm, pháp của tiểu thừa) nên thế gian vạn pháp dưới ánh mắt của họkhông có gì đáng quý, không có gì đáng tham luyến, say mê, không có gì đáng giữgìn, bảo thủ ngay cả tấm thân tứ đại của họ. Do đó cái “không” của hàng Thanhvăn là vạn pháp không tồn tại, trường cửu, không bền không chắc của sự vô thườngnên họ chứng được ngã không. Nói cách khác đối với sự vật hiện tượng của thế giớihữu vi như trời trăng mây nước, chim bay cá lặn thì không có vật gì thoát khỏiluật vô thường nên tất cả vạn pháp trong thế gian dưới ánh mắt của họ thì tât cảđều là không. Vì vậy “ngã không” ởđây chính là nhất thiết pháp vô ngã. Vô ngã nghĩa là vạn pháp ngay cả tấm thâncủa họ không có tự thể cố định, trường tồn, vĩnh cửu bởi vì chữ “ngã” trong đạoPhật là tự tại, thường nhất, bất biến mà vạn pháp trong thế gian nầy không cócái gì là bất biến, thường nhất, cố định cả. Khi đạt được chân lý ngã không thìcác vị trở thành bậc A la hán.

Vậytư tưởng đại thừa về chữ “không” như thế nào?

Đốivới Bồ tát thì chẳng những họ thấy thế giới vạn pháp là vô thường, ngã không vàkhổ như các vị Thanh văn mà Bồ tát còn thấy thực tướng của vạn pháp là vô tướng.Thế nào là vô tướng? Vô tướng dưới cái nhìn của Bồ tát là thế giới vạn pháp làhuyễn hóa, không thật, tuy có mà như không. Đó chính là “đương thể tức không” nghĩa là vạn pháp tuy sờ sờ ra đó, nhưng tâm Bồtát không chấp cái có của nó nên tuy có mà vẫn như không. Do đó cái khác biệt củaBồ tát là thấy cả “ngã không và phápkhông” chứ không nhất thiết chỉ biết ngã không như các vị A la hán. Vì thếtư tưởng đại thừa là “vạn pháp giaikhông, duyên sanh như huyễn” nên không chấp vào sự hiện hữu của thế gian vũtrụ nghĩa là tuy vạn pháp có đó mà trong tâm vẫn cứ như không. Vì không chấpnên Bồ tát không cần xa lánh thế gian mà vẫn không hề bị thế gian đắm nhiễm,tâm hằng tự tại, thanh tịnh niết bàn. Thí dụ các vị Thanh văn thấy con ngườisinh ra rồi già yếu, bệnh tật và sau cùng là chết nên các vị ấy sợ sinh tử,chán ngán cuộc đời. Ngược lại đối với Bồ tát quán pháp vô sanh nghĩa là khi tưduy quán chiếu để nhìn vạn pháp vô sanh thì cũng có nghĩa là nhìn vạn pháp vôdiệt. Thí dụ khi nhìn một nụ hoa thì làm sao biết được tánh vô sanh của nó? Khinhìn đóa hoa mới nở thì chắc chắn là nụ hoa sanh và vài tuần sau, hoa tàn thìnói rằng nụ hoa diệt. Nhưng đây chỉ là cái nhìn thiển cận của phàm nhân, còncái nhìn của Bồ-tát ngộ được vô sanh là ngay trong lúc nụ hoa mới nở thì cáisinh đã có diệt trong đó rồi. Ngược lại trong lúc nó tàn úa thì các vị Bồ-tát lạinhìn cái diệt là bắt nguồn cho cái sinh khác. Đó là hiện tượng quy về bản thểvà bản thể duyên khởi thành ra hiện tượng cho nên có cái gì là thật sinh haycái gì là thật diệt đâu. Nói cách khác sinh để rồi diệt, diệt rồi lại sinh,sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận nên sinh diệt, sống chết là chuyện thường,chẳng có gì quan trọng nên không còn lo sợ, khổ đau. Chúng sinh khi thấy mìnhgià yếu, bệnh tật thì đau khổ buồn phiền. Ngược lại, đối với Bồ-tát sống chếtlà chuyện bình thường, tử sanh là trò dâu biển nằm trong chu kỳ bất biến tùyduyên rồi tùy duyên bất biến thế thôi. Vì vậy với tuệ nhãn của Bồ-tát hay Phậtnhãn của chư Phật thì nhìn vạn pháp sanh mà không thật sanh và diệt nhưng khôngphải là mất hẳn nghĩa là sinh để rồi diệt và diệt rồi để lại sanh, sinh sinh diệtdiệt vô cùng vô tận.

Tómlại dưới nhãn thức của tiểu thừa thì cuộc đời vô thường, hoại diệt, nay có maikhông nên họ cố tu để chứng đắc Niết bàn, giải thoát sinh tử luân hồi. Ngược lạidưới tuệ nhãn của Bồ tát thì vạn pháp giai không nghĩa là thế gian vũ trụ tuycó mà vẫn như không, sinh rồi lại diệt, diệt để rồi sinh vô cùng vô tận. Khôngsợ sinh tử nên họ sống an vui tự tại, không chấp có chấp không nên lòng họkhông tham luyến. Khi biết hóa giải hết tham đắm dục tình (tập đế hay thập triềnthập sử) nghĩa là không còn dính mắc thì tâm hằng thanh tịnh, Phật tánh hiểnbày mà không cầu chứng đắc gì hết. Do đó người tu theo đại thừa thì không có vấnđề chứng đắc là ở chỗ này vì còn ý niệm chứng đắc cho dù là vi tế thì tâm vẫncòn tham tức là chưa dứt được thập sử vậy.

Cóngười tu thiền cố ngồi suy tư quán chiếu để biến tất cả thế gian thành ra khôngthì đây không phải là thiền của Phật giáo, càng tu càng khổ càng mê muội. Thếgian, nhà cửa, xe cộ, nam thanh nữ tú sờ sờ ở đó mà quán thành không, chẳng còngì hết thì thế gian còn cái gì để sống, để tu. Cái không của nhà Phật là “khôngchẳng khác sắc” nghĩa là “không là sắc và sắc là không”. Nói cách khác tất cả mọivật thể trong thế gian này dù to lớn như mặt trời, mặt trăng hay nhỏ như hạtcát như vi trần đều do duyên khởi tác tạo mà thành chớ không vật nào tự nó sinhkhởi hay tồn tại được cho nên vật thể là vô ngã, không có tự thể nên tuy là có,là thấy sờ sờ ở đó nhưng một ngày nào đó nó sẽ bị biến hóa, tiêu hoại nên gọilà không. Vì thế cái không của Phật giáo là không tham đắm, si mê, không chấpthủ chạy theo hình sắc sinh diệt chớ không phải dùng thần thông hay quán làm biếnđi tất cả. Ngày xưa Đức Phật cũng sống trong cái thế giới có đầy đủ vật chấtnhư chúng ta hiện nay, nhưng dưới mắt của người giải thoát giác ngộ là tuy cónhưng tất cả đều là không nên Ngài không dính mắc vào bất cứ cái gì ngay cả BồĐề, Niết Bàn. Vì vậy chán cái khổ vì có nên cố tìm cầu cái không thì kết quảcũng khổ như nhau tức là vẫn còn chấp bên này bên kia, chưa tự tại.

Trí tuệ của chúng sinh là thật tánh để có khả năng trực nhậnchân lý mà Tự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẵn trong tất cả mọi người. Tựtánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, PhậtTánh là có sẳn chớ đâu phải tu hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thìkhông biết mình có Phật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng nhưtrong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò tay vô lấy thìsẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay. Trong tánh Không tức là Tự Tánh thanhtịnh bản nhiên thì không có trí tuệ hay chứng đắc gì cả. Vì thế Tâm Kinh mới cócâu : ”Vô trí diệc vô đắc” và “Dĩ vô sở đắc cố” là vậy. Trong ChânKhông Diệu Tánh, Phật Tánh thì luôn sẳn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói,là giả danh để tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai Diện Mục của mình màthôi.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật Thích Ca dạy rằng “Như Lai không chứng đắc quả Vô thượng Chánhđẳng Chánh giác gì cả”. Sở dĩ Ngài không chứng mà thế gian đều tôn trọngNgài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có tướng nhơn, không có tướngchúng sinh và cũng không có tướng thọ giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳngkhông thương, không ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và NhưLai luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào trong qũy đạo của ác pháp chonên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề chớ thật ra Như Lai có chứngđắc gì đâu. Tuy Như Lai nói không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng đắc.Cái chứng đắc nầy là vô thực và vô hưtức là không phải thật và cũng không phải là không. Tại sao không là thật? Bởi vì cái mà Như Lai chứng đắc thì không cóhình tướng, không có màu sắc, không có kích thước, nặng nhẹ, không có văn tựngôn ngữ để diễn tả. Thế thì cái mà Như lai chứng đắc là không thật có. Nhưng nếukhông thật thì phải là hư. Vậy mà cái quả chứng đắc của Như Lai lại là vô hư. Tại sao?Là vì Như Lai có đầy đủ trí tuệđể nhận thức chân lý hoàn toàn đúng, đúng theo tự tánh Bồ-đề và tự tánh thanh tịnhNiết bàn của sự vật hiện tượng, đúng theo Thật Tánh của con người, đúng theoPháp Tánh của vạn pháp cho nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não khổđau, tâm luôn thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức làkhông phải là không có. Cho nên Tâm Kinh mới có câu : ”Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” có nghĩa là Có tức là Khôngvà Không mới chính là Có vậy.

Tu hành trong Phật giáo thì gọi là hồi đầu thị ngạn. Vì sao?Phật ví như người đã ở trên bờ còn phàm phu chúng sinh thì vốn cũng đã ở trên bờnhư Phật nhưng họ vì sự tham đắm sắc dục và vô minh che lấp trí tuệ nên đã lênthuyền vượt ra biển cả mênh mông mà phải bị sóng dập gió biển trùng trùng. Bâygiờ nếu nghe lời Phật dạy, nương theo chánh pháp mà chịu quay thuyền trở lại thì cũng có thểlên bờ và được an vui tự tại như Phật. Đó chính là hồi đầu thị ngạn tức là có hồithuyền mới có ngày đến bến. Người học Phật nếu thấu hiểu đạo lý nầy để cảm nhậnđược chân lý huyền diệu của Thế Tôn mà không rơi vào mê tín dị đoan. Tuy Phậtvà Bồ-tát thương tất cả chúng sinh như con một của các Ngài, nhưng chính chúngsinh phải tự mình thức tỉnh và biết áp dụng những chân lý nhiệm mầu của Phật.Đó chính là ba từng kinh điển giáo pháp. Đừng hiểu lầm chỉ đường để chúng sinh quay về bờ không có nghĩa là Phậtra biển đưa chúng sinh về bờ mà chúng sinh phải tự mình chèo lái dựa theo tấm hải đồ mà Đức Phật đã ban cho.Nói một cách khác là Phật không độ hiểu theo nghĩa cầu nguyện, cúng lạy cho aihết mà Phật chỉ độ hiểu theo nghĩa y giáo phụng hành mà thôi. Chèo nhanh, chèochậm là tùy theo căn cơ, sở nguyện của chúng sinh, nhưng hễ có chèo là có ngàyđến bến. Tóm lại quả vị vô thượng Bồ-đề không phải dành riêng cho Như Lai, nếutất cả chúng sinh chịu hướng về với tự tánh thanh tịnh tức là Phật tánh củamình thì sẽ có Bồ-đề ngay.

Vì thế tất cả trăm vạn phương tiện của Phật giáo cũng khôngngoài mục đích giúp chúng sinh hồi đầu thị ngạn để quay thuyền trở lại bến xưamà sống với chơn tâm, Phật tánh thanh tịnh thường hằng sáng suốt trong ta. Thuyềnvề lại bến xưa thì chơn tâm hiển bày, Phật tánh biểu lộ và từ đây chúng sinh sẽsống rất sáng suốt thanh tịnh an bình đầy phúc lạc.

Nam Mô Bổn SưThích Ca Mâu Ni Phật

Lê Sỹ Minh Tùng

CÙNG TÁC GIẢ:

ĐẠI THẾ CHÍ BỐ TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG GIẢNG GIẢI - Lê Sỹ Minh Tùng

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NHĨ CĂN VIÊN THÔNG GIẢNG GIẢI - Lê Sỹ Minh Tùng

THANH TINH TÂM Lê Sỹ Minh Tùng

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI (SURAMGAMA SUTRA) Lê Sỹ Minh Tùng - Cuốn Hai

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI (SURAMGAMA SUTRA) Lê Sỹ Minh Tùng - Cuốn Một

CÁC TÔN GIÁO LỚN TRÊN THẾ GIỚI VÀ NIỀM TIN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ. Lê Sỹ Minh Tùng

NIỀM TIN PHẬT GIÁO Lê Sỹ Minh Tùng

BÁT NHÃ TÂM KINH GIẢNG GIẢI - Lê Sỹ Minh Tùng

KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI - Lê Sỹ Minh Tùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 685)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 1147)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2179)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 1898)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 1902)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 2875)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 5664)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 19418)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10115)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 4361)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567