Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

ĐIẾU TỪ Hòa thượng Viện trưởng Viện hóa đạo, Cung tuyên trong lễ nhập tháp đức Đệ nhị Tăng Thống,

21/05/201019:56(Xem: 16380)
ĐIẾU TỪ Hòa thượng Viện trưởng Viện hóa đạo, Cung tuyên trong lễ nhập tháp đức Đệ nhị Tăng Thống,
HT Giac Nhien tham PG Binh Dinh (6)ĐIẾU TỪ
Hòa thượng Viện trưởng Viện hóa đạo,
Cung tuyên trong lễ nhập tháp đức
Đệ nhị Tăng Thống,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Cố Đại lão Hòa thượng THÍCH GIÁC NHIÊN
15.1.AAl (11/02/1979), tại Tổ đình Thuyền Tôn - Huế

 
Nam mô Thiên Thai sơn, Liễu Quán pháp phái Thuyền Tôn tổ đình, Lâm tế nguyên phái, tứ thập nhị thế, sung Việt Nam Phật giáo thống nhất Giáo hội, Tăng Thống đại bảo vị, thượng Giác hạ Nhiên  Tôn giả, toạ tiền tác đại chứng minh.
Kính bạch đức Tăng Thống!
Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất ra đời với sứ mạng thừa kế sự nghiệp truyền trì đạo giáo cao cả của đức Bổn Sư Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà liệt Tổ truyền giáo đã dày công xây dựng trên mảnh đất Việt nam thân yêu này, với một cơ đồ vững chắc tốt đẹp hơn hai nghìn năm lịch sử. Chưa có một Đạo giáo, học thuyết nào trong quá khứ đã có một ảnh hưởng, một thọ mạng, một địa vị hơn thế được, đối với xứ sở này. Thật vậy, lịch sử truyền giáo của Phật giáo Việt nam là một lịch sử gắn liền với lịch sử giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt nam. Điều đó không ai phủ nhận được và cũng không có tổ chức nào trong quá khứ có  trang sử vẻ


device

vang trọn vẹn như vậy, đối với xứ sở. Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất là hậu thân, là miêu duệ xứng đáng của Giáo hội và liệt Tổ tiền nhiệm của Phật giáo cho dân tộc Việt nam.
Kính bạch đức Tăng Thống!
Hôm nay, giờ này, trước Linh đài, trước bảo tháp, trước hình ảnh uy nghiêm đức Tăng Thống và trước cộng đồng Tăng tín đồ, Giáo hội chúng con đê đầu đảnh lễ liệt Tổ quá khứ để xin gợi lại vài nét vàng son của Phật giáo Việt nam. Đồng thời chí thành khể thủ trước đức Tăng Thống, xin giác linh Ngài cho phép chúng con bày tỏ nỗi lòng tôn thờ, kính yêu chí thành tha thiết của chúng con đối với đức hạnh cao cả và sự nghiệp lãnh đạo sáng suốt trong nhiệm vụ thiêng liêng của đức Tăng Thống đối với Giáo hội, với toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Việt nam.
Kính bạch đức Tăng Thống!
Đức Tăng Thống ra đời trong thế kỷ trước, một thế kỷ suy tàn, biến động và mất nước. Và Ngài đã vào đạo trong thế kỷ này, trong một tôn giáo tuy lớn lao nhưng cũng cùng số phận tủi nhục hẩm hiu chung của dân tộc. Hoàn cảnh lúc bấy giờ khó mà có thể giúp được gì cho một công dân, một tu sĩ như đức Tăng Thống để có cơ hội tiến lên xây dựng sự nghiệp cho bản thân, cho dân tộc và cho đạo pháp.

* Trang 36 *
device

Nhưng đức Tăng Thống đã không tầm thường. Với ý chí và khả năng riêng, Ngài đã cùng với các Thiện hữu tri thức khác, được đào tạo và trưởng thành một cách đáng kính phục trong các Thiền lâm tôn nghiêm cổ kính của Giáo hội. Đặc biệt với giới đức, Ngài được đào tạo đến nỗi thân, miệng, ý hoàn toàn đồng hóa với giới pháp. Chính giới đức này, đã và mãi mãi là hào quang và cam lồ soi sáng và làm tươi mát cho Phật giáo, cả thế giới Phật giáo đang sống. Thật vậy, giới hạnh của đức Tăng Thống đã giữ Đạo, dựng Đạo bằng cách tuân giữ huấn thị sau đây của Đức Phật, tuân giữ suốt một đời bằng một thế kỷ của mình: “Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ”. Đức Tăng Thống đã đóng góp lớn lao cho Phật giáo, cho thế giới Phật giáo đang sống, chính là giới pháp hiện thực ấy.
Đối với đời, đức Tăng Thống cũng đã giúp cho xứ sở, cho mọi người trong sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nhất là thời kỳ toạ vị, đức Tăng Thống đã lãnh đạo Giáo hội qua hai thời kỳ lịch sử đặc biệt của đất nước, đi đúng đường lối và truyền thống của lịch sử Phật giáo Việt nam. Đức Tăng Thống đã ý thức và hành động phản ánh qua các thông điệp Phật đản sau ngày đất nước hoà bình thống nhất. Đức Tăng Thống đã kêu gọi Tăng Ni và Phật tử đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lời kêu gọi ấy, tuy đơn giản, nhưng đã ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đối với quảng đại quần chúng trong công

* Trang 37 *
device

cuộc kiến thiết xứ sở. Đó là một đóng góp nữa của đức Tăng Thống cho đời, qua tư thế và trách nhiệm tôn giáo của đức Tăng Thống.
Với ngần ấy tinh thần, ngần ấy công đức mà chúng con vừa đê đầu trình lên còn lắm thiếu sót, lắm vụng về nhưng cũng đã nói lên phần nào lòng ngưỡng mộ thiết tha của chúng con đối với đức Tăng Thống. Dĩ nhiên điều đó đã xúc phạm đến cá tính của đức Tăng Thống, nhưng chắc chắn đức Tăng Thống sẽ tha thứ cho chúng con, như Ngài đã tha thứ từ lâu như vậy.
Kính bạch đức Tăng Thống!
Sau hơn một thế kỷ trác tích nơi cõi đời đầy khó khăn đau khổ và bất trắc, hôm nay đức Tăng Thống đã ra đi theo thệ nguyện: “Khứ lai tự tại”. Chúng con và tất cả tứ chúng của Giáo hội không khỏi đau buồn khi thấy ca sa đức Tăng Thống để lại đã in bóng trăng mờ. Tích trượng đức Tăng Thống để lại đã thấm màu sương lạnh! Từ nay, ngọn đèn Thiền thất chong suốt canh dài, nhưng pháp tướng cao cả oai nghi, nằm ngồi đi lại, sau giờ phóng tham thì còn đâu nữa. Từ nay, ánh trăng khuya lồng bóng kinh song lạnh lẽo thì vẫn còn đó, nhưng còn đâu, người hành giả thường trầm tư mặc tưởng với công án và thoại đầu vi diệu của thiền tôn! Từ nay tìm đâu ra dáng dấp siêu trần của Người truyền giáo cao cả trên bước đường hoằng pháp độ sanh

* Trang 38 *
device

đây đó của vị Đạo sư khả kính! Từ nay, những đứa con thơ dại đang ăn nhằm trái đắng, uống lỡ thuốc cay trong lúc Lão phụ đang đi về một phương trời xa xôi đâu rồi! Thật không có gì rủi ro đau buồn và bất hạnh hơn cho đàn con đó. Chúng con chỉ mong đức Tăng Thống, y theo đại nguyện hồi nhập Ta bà, hãy thương chúng con, hãy quay lại nhìn chúng con.
Giờ này, đức Tăng Thống không còn nữa. Giáo hội mất đi một vị Đạo sư tối tôn chí kính. Tứ chúng mất đi một vị cha lành phước trí vẹn toàn. Tổ đình Thuyền Tôn mất đi một vị cao túc truyền đăng xứng đáng nhất của Liễu Quán Tổ sư. Thật vậy, không ai là không xúc động và ngậm ngùi trước cảnh: “ Sơn tồi, hà ẩm” của nhân thế thường tình. Ôi! Bao nhiêu mất mát, bao nhiêu đớn đau thiệt thòi! Nhưng chúng con biết làm gì hơn để giữ mãi cho Giáo hội, cho chúng con một mảnh trăng tròn cuối tháng, một mùa xuân sau chín chục ngày! Chúng con làm sao giữ được một giọt nước cam lồ, một đoá hoa Ưu đàm yêu quý còn mãi mãi với chúng con.
Ôi! Trăng mờ, xuân mãn
Nước chảy, hoa tàn.
Luật biến thiên bất tận muôn đời không riêng ai cả. Chúng con chỉ còn lại trong lòng một niềm đau buồn vô hạn sau ngày đức Tăng Thống ra đi, không

* Trang 39 *
device

hẹn ngày trở về! Tuy nhiên, chúng con nghĩ rằng: “Chư Phật ra đời vì hạnh nguyện độ sinh, khi nhơn duyên đã mãn, chư Phật đã thị hiện Niết bàn. Đức Tăng Thống đã đến đây và ra đi cũng cùng hạnh nguyện của một vị Bồ tát”. Chúng con đã và sẽ lấy đó làm lẽ sống cho Giáo hội, cho chúng con. Chúng con nhất tâm đoàn kết để giữ gìn đường lối chỉ đạo, nhất là các lời giáo huấn cuối cùng của đức Tăng Thống để kế tục sự nghiệp giữ Đạo, dựng Đạo, giữ nước, dựng nước, để lịch sử Việt nam trong sáng muôn đời. Và những thệ nguyện chân thành thiết tha ấy mới mong đền đáp được phần nào ân pháp nhũ vô biên của đức Tăng Thống, đã giáo dưỡng cho chúng con trong tinh thần đạo giáo cao quý của đức Bổn Sư Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni.
Chúng con nguyện:(Điệp xướng và  đồng thanh)
Nhất tâm lãnh thọ,
Y giáo phụng hành.
Và trong giờ phút trang nghiêm cuối cùng này, chúng con đồng lắng lòng bùi ngùi đưa linh giác đức Tăng Thống nhẹ nhàng lên vân lộ xa xôi, đi vào chốn bất sanh bất diệt của Niết bàn, và đưa nhục thân đức Tăng Thống vào bảo tháp vô tung, nơi an nghỉ nghìn thu của trần thế.
Chúng con đồng thành tâm phục nguyện:
Linh minh nhất tánh,

* Trang 40 *
device

Trực vãng Tây phương
Diệu tịnh tam ma,
Tốc thành chánh giác.
Chứng vô sanh chi pháp nhẫn
Nhập đại định ư chơn thừa,
Nguyện chư Phật từ bi thọ ký,
Mong đức Tăng Thống sớm trở lại độ sanh.
Nam mô từ Lâm tế chánh tôn, Thuyền Tôn pháp phái, sung Việt nam Phật giáo thống nhất Giáo hội, Tăng Thống bảo vị, huý Giác Nhiên - Đại lão Hòa thượng...(điệp xướng - đồng hoà:)
Tác đại chứng minh
Thùy từ gia hộ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2012(Xem: 2610)
1-Người Phật tử cần phải thiền trong đi đứng nằm ngồi, trong sinh hoạt hằng ngày sẽ giúp cho chúng ta nhận biết được rõ ràng những ý nghĩ, lời nói, hành động của mình là thiện hay bất thiện, để ta sửa sai điều xấu ác và biết phát huy điều tốt đẹp. 2-Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình để có được an lạc hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và xã hội. 3-Người Phật tử khi đi chùa phát tâm cúng dường phải biết nhu cầu ở trong chùa là gì, để việc phát tâm cúng dường của chúng ta có được lợi ích thật sự mà không lãng phí xa hoa.
31/03/2012(Xem: 2829)
“Báo oán hạnh” là gì? Đó là hạnh chấp nhận những khổ đau, những chướng duyên như là những cuộc báo oán tự nhiên của luật nhân quả. Ai gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu, muôn đời không sai chạy... Quãng đời nghiệp chướng Tôi sinh ra và lớn lên trong gia đình thuộc lớp nghèo thành thị. Cha tôi có nhiều vợ, tám anh em tôi là dòng thứ hai. Vì vậy mà mẹ tôi phải khổ sở cả đời.
31/03/2012(Xem: 2827)
Vì nhân duyên ta lại gặp nhau Giữa dòng đời tất bật, ngược xuôi Sống dưới mái ấm gia đình Ta dành cho nhau chút tình yêu thương. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Đời mấy ai được nghĩa vẹn toàn Ta yêu thương trong dày vò Ta đến với nhau vì thiếu hiểu biết.
29/03/2012(Xem: 2678)
Chúng ta đến với nhau Bằng tình yêu luyến ái Là tự mình ràng buộc Trong nhiều kiếp mai sau. Muốn chấm dứt sống chết Hãy diệt trừ tham ái Chuyển hóa sự vô minh Để sống đời hạnh phúc.
26/03/2012(Xem: 2674)
Nhân quả là chân lý sống, không thể thiếu trong gia đình và xã hội, nơi nào không tin nhân quả sẽ sống trong loạn lạc, phi đạo đức. Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình, hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác dễ dẫn đến mê tín, dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Còn ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân, miệng, ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy, thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh, van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm dám chịu không đổ thừa cho ai.
17/03/2012(Xem: 7232)
Theo truyền thuyết, không lâu trước khi nhập niết bàn, Đức Phật đã trả lời Ananda, thị giả theo hầu cận Phật nhiều năm, khi vị này xin Phật chỉ dẫn cách đối xử cho các vị tỳ kheo...
12/03/2012(Xem: 2870)
Duy thức, như tất cả các con đường khác của Phật giáo, nhằm đến mục tiêu chiến lược là thấy được “hai vô ngã: nhân vô ngã và pháp vô ngã”. Nhân vô ngã là con người vô ngã. Pháp vô ngã là mọi hiện tượng đều vô ngã. Thấy được hai vô ngã là thấy thực tại tối hậu, gọi là tánh Không, Niết-bàn, Pháp thân, Chân Như… Nói theo hệ thống Duy thức, thấy hai vô ngã là giải tan Biến kế sở chấp tánh để Viên thành thật tánh hiển bày. Sanh tử là do không biết rằng tất cả đều do thức biến hiện. Kinh Lăng Già đời Tống, Cầu-na Bạt-đà-la dịch: “Thế nào người trí ở ngay nơi lầm loạn này mà khởi chủng tánh Phật thừa? Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, ở bên ngoài đều vô tự tánh nên chẳng có tướng vọng tưởng”.
02/03/2012(Xem: 3049)
Qua mắt chúng ta, thấy đó là trả nghiệp, đáng sợ, song với Tổ đã không thấy thật, nói gì là trả. Cũng như ông A khi chưa hiểu đạo, bị ông B làm vài hành động không vừa lòng, ông liền mắng chửi ông B. Thời gian sau, ông A hiểu đạo, đúng lúc ông B trả thù mắng chửi thậm tệ hơn trước. Song ông A thấy lời nói không thật, không có gì quan trọng, nên vẫn tươi cười không buồn, không đổi nét mặt. Như thế ông A có trả nợ trước hay không trả nợ trước? Thật sự, nợ đã vay thì phải trả, chỉ khác ở chỗ mê thì thấy thật, ngộ thì thấy không thật. Ðã không thật thì trả cũng như không trả. Vì thế, nói "liễu tức nghiệp chướng bản lai không". Cứu kính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuy không thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật.
27/02/2012(Xem: 3162)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
26/02/2012(Xem: 3887)
Thể tánh của đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567