Nguyên tác: "The Buddha and His Teaching", Ernest K. S. Hunt, 1962
TỊNH MINH dịch Việt, 1992
-ooOoo-
Ven. Ernest Hunt (1876-1967)
BIOGRAPHY OF THE AUTHOR
The Venerable Ernest Kaundinya Shinkaku Hunt was born on the sixteenth day of August 1876 at Hoddesdon, Hertfordshire, England. He received an elementary education from a governess in his home. At the age of eleven he went to Saint Paul's School, London, as a day scholar. A year later he enrolled as a pupil in the Cranbrock Grammar School in Kent, after which he entered Eastbourne College in Sussex from which later he graduated, passing the Oxford Junior and Senior Locals.
Feeling an inclination to go to sea, he became a midshipman in the British Mercantile Marine. At one of the ports on the ship's call he met, by chance, a young Buddhist Indian who kindly invited him to his house and gave him some pamphlets which explained the Teachings of Karma and Rebirth as taught by the Lord Buddha. These doctrines fascinated him and went deep into his subconscious mind. Later, being spiritual minded, he studied for the Church of England priesthood but found the Buddhist teaching prevented him from wholly accepting the Christian faith.
He came to the Hawaiian Islands in 1915 and after studying the Buddhist religion for several years wrote and Outline of Buddhism as a Thesis for the degree of Doctor of Dharma and ordination as priest, from the Burma Buddhist Mission affiliated with the University of Rangoon. He founded the International Buddhist Institute of Hawaii in 1932, and was elected life president of the Institute.
The Venerable Rosen Takashina, Archbishop and head of the Soto Sect in Japan, came to Honolulu in 1953 to formally open the new temple. Before leaving the Island, the Archbishop gave him a Soto Zen ordination.
When the I.B.I.affiliated with the Western Buddhist Order, he was appointed the Deputy Superior General of the W.B.O. for the Pacific Area.
-ooOoo-
Vietnamese Translator
Mr Tinh Minh (1947-2013)
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Thượng tọa Ernest Kaundinya Shinksku Hunt sinh ngày 16 tháng 8 năm 1876 tại Hoddesdon, Hertfordshire, Anh quốc. Ngài học tiểu học với một cô giáo dạy kèm tại nhà. Năm 11 tuổi, ngài đến trường Saint Paul, Luân Đôn, với tư cách là một học sinh chính thức ban ngày. Một năm sau, ngài ghi danh vào trường trung học Cranbrock ở Kent, sau đó ngài vào trường đại học Eastbourne ở Sussex, qua được các kỳ thi địa phương cuối cấp Oxford, và tốt nghiệp tại đó.
Vốn thích đi biển, ngài đã trở thành chuẩn úy hải quân trong đội thương thuyền Anh quốc. Nhân lúc tàu cập bến tại một hải cảng, tình cờ ngài gặp một thanh niên Tăng người Ấn. Vị này hảo ý mời ngài về nhà và tặng ngài vài cuốn sách nhỏ luận về thuyết Nghiệp Báo, Tái Sinh như Đức Phật đã thuyết giảng. Các luận thuyết đó đã thu hút và đi sâu vào tiềm thức của ngài. Sau đó, với khuynh hướng nội tâm, ngài học tập để trở thành giáo sĩ của Giáo Hội Anh Quốc nhưng vẫn thấy Phật Pháp soi đường, ngài không thể hoàn toàn chấp nhận niềm tin Thiên Chúa.
Ngài đến đảo Hawaii năm 1915, và sau nhiều năm nghiên cứu Phật Giáo, ngài viết một Đề Cương Phật Giáo làm luận án cho học vị tiến sĩ Phật Học (Doctor of Dharma), được Viện Đại Học Rangoon công nhận và được thọ giới làm tu sĩ theo Giáo Hội Phật Giáo Miến Điện. Ngài thành lập Viện Phật Giáo Quốc Tế Hawaii vào năm 1932 và được bầu làm viện trưởng sinh tồn của Viện.
Thượng Tọa Rosen Takashina, Hội chủ và là hội trưởng giáo phái Tào Động (Soto) ở Nhật, đến Honolulu năm 1953 để chính thức khánh thành ngôi chùa mới được thành lập. Trước khi rời Đảo, ngài Hội chủ đã truyền pháp Thiền Tào Động cho ngài.
Khi Viện Phật Giáo Quốc Tế liên kết với Giáo Hội Phật Giáo Tây Phương, ngài được bầu làm Phó Chủ Tịch Hội Phật Giáo Tây Phương đặc trách vùng Thái Bình Dương.
-ooOoo-
EDITOR'S PREFACE
It was more than half a century ago that Venerable Ernest K. Hunt began his preaching of Buddhism in the Hawaiian Islands. Many works have been done for the English speaking Buddhists in Hawaii. His contributions are being acknowledged by all Buddhists in Hawaii regardless of their sects and denominations.
Venerable Hunt is now nearly ninety years old, and is in good health. He is still carrying on his work to spread the teaching of Buddhism.
His work which is now entitled " The Buddha and His Teaching " was written and published in booklet form many years ago for the Buddhist Sunday School use. It is so well presented for young people that I asked Venerable Hunt's permission if I could compile it into a new book with illustrations. He gladly gave me his consent.
I wrote immediately to Mr. Sosei Sawa, President of Aoyama Shoin Inc., Tokyo. Mr. Sawa also gladly accepted my request.
I sincerely hope that young Buddhists will learn more about the teaching of Buddha through this book and walk together hand in hand on the righteous way shewed by the Lord Buddha.
Jiho Machida. January 3, 1962.
LỜI NGƯỜI XUẤT BẢN
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Thượng Tọa Ernest K. Hunt đã bắt đầu thuyết giảng Phật Giáo tại đảo Hawaii. Nhiều tác phẩm đã được ấn hành cho giới Phật tử nói tiếng Anh ở Hawaii. Những đóng góp của ngài đang được tất cả Phật tử Hawaii ghi nhận, bất chấp các môn phái và giáo phái của họ.
Thượng Tọa Hunt hiện nay gần 90 tuổi và còn khỏe mạnh. Ngài vẫn còn trước tác để truyền bá Phật Pháp.
Tác phẩm của ngài hiện nay với tựa đề: "ĐỨC PHẬT VÀ GIÁO PHÁP CỦA NGÀI" đã được biên soạn và xuất bản cách đây nhiều năm dưới dạng sách nhỏ dành cho lớp học Phật Pháp ngày chủ nhựt. Thấy sách trình bày có ích cho giới thanh niên, tôi xin phép Thượng Tọa Hunt kết tập thành một cuốn mới với nhiều minh họa. Ngài đã hoan hỷ chấp thuận.
Tôi viết thư ngay cho ông Sosei Sawa, giám đốc tổng công ty Aoyama Shoin, Tokyo. Ông Sawa cũng vui lòng chấp thuận yêu cầu của tôi.
Tôi thành thật hy vọng giới Phật tử trẻ tuổi sẽ hiểu biết nhiều hơn về những lời dạy của Đức Phật qua tập sách này, và cùng nhau nắm tay tiến bước trên con đường chân chính mà Đức Phật đã vạch ra.
Jiho Machida. Ngày 3 tháng 1 năm 1962
-ooOoo-
Chân thành cám ơn Đạo hư Bình Anson đã gửi tặng phiên bản vi tính này.
Như cuộc sống hiện giờ có ba việc ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không? Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Ðến thở, nhịn bao lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.
Có nhiều người đi chùa nhưng họ đến để tìm một cái gì đó không liên quan đến việc tỉnh thức tâm linh. Người Tàu đến chùa cúng Phật rất nhiều, để cầu buôn may bán đắt, làm ăn phát đạt hoặc xin xăm xin quẻ, nếu được quẻ tốt thì mừng cúng Phật nhiều, nếu gặp quẻ xấu thì buồn bã bỏ về. Ðến chùa khấn vái xin xỏ như thế thì chùa có khác gì đình miếu. Nhưng khổ nỗi chính những hạng "Phật tử" như thế mới giúp cho chùa khá giả
Phật pháp - ngôi nhà chung của nhân loại được dở bỏ, dựng thành những ngôi nhà nhỏ tự bao giờ? Thực tế ngôi nhà chung ấy còn, Thời mạt Pháp, Pháp không mạt. Chỉ là nó vô hình với ai vẫn còn chạy theo cuộc sống tạm bợ trần ai, và phải đợi đến lúc thân mạng tơ tướp không còn biết nương nhờ vào đâu mới chịu vào an ngụ.
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt. Thanh niên là thích thực tế, ưa hoạt động nên không cần để ý đến.
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ, nhận lấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin đó là “chánh tín”. Ngược lại, bày những điều mê hoặc làm mù quáng người đời, lừa bịp thế gian, ấy là “mê tín”. Hoặc không hiểu rõ, không có lý lẽ, mà tin càng tin bướng là “mê tín”. Tin bướng là họa hại đưa con người đến đường mù tối. Thấy rõ biết đúng mới tin là sức mạnh vô biên khiến người thành công trên mọi lãnh vực.
Mọi việc khổ vui trong kiếp hiện tại của chúng ta đều do nghiệp quá khứ và hiện tại chi phối. Nghiệp lành thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ, chúng ta chỉ biết sợ khổ, cầu vui mà không biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp lành. Thế chẳng khác nào kẻ sợ bóng mà cứ đứng ngoài trời nắng, muốn nghe nhạc mà bịt lỗ tai. Một khi nghiệp quả đến, chúng dù muốn dù không, tất nhiên cũng phải chịu. Bởi nó là kết quả do hành động của chính mình đã tạo. Mình làm, rồi mình chịu, đó là lẽ công bằng hợp lý của kiếp người.
Hôm nay, tôi sẽ nói đề tài: "Chỗ gặp gỡ và chỗ không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Ðộ Tông". Phật giáo Việt Nam chúng ta có chia ra nhiều tông phái, nhưng xét kỹ thì có ba tông chính: Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông và Mật Tông
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận giải Nobel Hòa Bình 21 năm trước, ngài nói, "Tôi chỉ là một thầy tu giản dị". Nhưng tôi có thể nói với các bạn, khi tôi gặp ngài lần đầu tiên năm năm trước rằng ngài hơn là một thầy tu giản dị rất nhiều. Tôi vẫn nhớ lần viếng thăm ấy bởi vì đấy là những thời khắc đáng ghi nhớ nhất trong đời tôi và khi tôi gặp những sinh viên chưa tốt nghiệp của chúng ta, họ nói, "Ô, ông đã từng gặp những lãnh tụ thế giới, ông đã từng gặp những tổng thống, ông đã từng gặp những Khôi nguyên Nobel Hòa Bình. Nhưng ai là người hấp dẫn nhất và ấn tượng nhất mà ông đã từng gặp?" Và tôi nói, đấy phải là việc gặp gở với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Sau khì thành Đạo dưới cội Bổ Đề, Đức Phật vân du khắp nơi để diễn bày chân lý nhiệm mầu đến khắp nơi : "Cửa vô sinh bất diệt, đã mở cho tất cả chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe được hưởng trọn niềm tin tưởng"
Đức Phật nói rất nhiều vấn đề, Khoa học cũng đã chứng minh được nhiều vấn đề mà đức Phật đã nói cách nay trên 2550 năm; trong phạm vi giới hạn, bài này người viết chỉ đưa ra hai vấn đề đó là: 1. Tam tế tướng, 2. Tâm và vật, để xem Khoa học nói gì về hai vấn đề này.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.