Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 62: Đừng vội tin cũng đừng vội bài bác

13/01/201110:55(Xem: 11432)
Chương 62: Đừng vội tin cũng đừng vội bài bác

Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

13.

Chương 62

ĐỪNG VỘI TIN CŨNG ĐỪNG VỘI BÀI BÁC

Mùa an cư hoàn mãn, đại đức Sariputta đến từ biệt Bụt để lên đường hành hóa, Bụt chúc đại đức lên đường bình yên, thân thể và tâm trí nhẹ nhàng, không gặp quá nhiều khó khăn trên đường giáo hóa. Đại đức Sariputta cảm tạ và lên đường ngay sau đó.

Trưa hôm ấy có một vị khất sĩ lên tìm Bụt và phàn nàn với người là thầy đã bị đại đức Sariputta hất hủi. Bụt hỏi hất hủi như thế nào. Vị khất sĩ ấy đáp:

- Con hỏi thầy ấy đi đâu, thầy ấy đã không thèm trả lời mà lại còn xô con ngã rồi bỏ đi không thèm xin lỗi.

Bụt bảo Ananda:

- Chắc Sariputta chưa đi xa đâu. Ananda, hãy nhờ một vị sa di đi tìm đại đức Sariputta về. Tối hôm nay chúng ta sẻ tâp họp đại chúng ở giảng đường Jeta.

Đại đức Ananda vâng mệnh. Chiều hôm ấy đại đức Sariputta trở về tu viện với vị sa di. Thầy lên trình diện Bụt. Bụt bảo:

Sariputta, tối hôm nay chúng ta sẽ họp tại giảng đường, có vị khất sĩ buộc tội thầy đã xô ngã thầy ấy và bỏ đi không thèm xin lỗi.

Các đại đức Moggallana và Ananda chiều hôm đó tay cầm xâu chìa khóa đi vào khắp các tăng xá của tu viện. Tới đâu họ cũng thông báo về cuộc họp tối nay. Họ nói:

- Mời chư huynh đệ tối nay tới họp mặt đông đảo tại giảng đường. Tối nay sư huynh Sariputta thế nào cũng gầm lên tiếng gầm sư tử của sư huynh trước mặt Thế Tôn và đại chúng, sẽ hào hứng lắm.

Tối hôm ấy giảng đường không thiếu mặt ai. Ai cĩng muốn biết đại đức Sariputta phản ứng thế nào trước những người lâu nay đã có thái độ ganh ghét và hờn giận mình. Ai cũng biết rằng đại đức là một người đệ tử lớn của Bụt và được Bụt tin yêu, và vì vậy ông đã là mục tiêu của rất nhiều sự hiểu lầm và ganh ghét.

Trong giới môn đệ Bụt, có người nghĩ rằng Bụt đã tin cậy Sariputta một cách quá đáng, rằng người đã quá nghe lời Sariputta, hoặc đã đi tới những quyết định dưới ảnh hưởng nặng nề của vị đại đức này. Có người lại nghĩ rằng nều họ bị Bụt quở trách và giáo giới đó là cũng vì Bụt đã nghe những lời nói ra nói vào của đại đức Sariputta. Và họ đem lòng hận thù đại đức. Họ nhắc mãi tới việc năm xưa có lần Bụt đã mời Sariputta ngồi chung một ghế.

Có một thầy tên là Kokalika, trước đây cũng từng cư trú tại tu viện Jetava, và đã từng thù ghét các sư huynh Sariputta và Moggallana đến nước không ai có thể can ngăn được. Chuyện đã xảy ra cách trên tám năm, nhưng vẫn còn đậm nét trong lòng thầy Ananda. Theo thầy Kokalika thì cả hai vị đại đệ tử Bụt là Sariputta và Moggallana đều là những người tu hành giả dối, đều là người hành động theo ái dục. Niềm ganh tỵ và hận thù của thầy Kokalika quá lớn khiến không ai có thể hòa giải được. Chính Bụt đã có lần gọi thầy tới và bảo: “Này khất sĩ Kokalika, đừng có nói rằng Sariputta và Moggallana là những người bị ái dục chi phối. Họ là những người có đạo đức chân thật và tính tình rất hòa ái”. Tuy nhiên vì tâm thầy Kokalika đã bị hận thù che lấp nên thầy không tiếp nhận được lời của Bụt. Cuối cùng thầy bỏ tu viện ra đi. Sau đó thầy mắc một chứng bịnh rất lạ kỳ. Da thầy trở nên sần sùi, rồi tự nhiên đầy mình mọc ra hàng vạn cái mụt nhỏ lớn bằng hạt cải, những cái mụt này lớn lên bằng những hạt đậu. Rồi những chiếc mụt ấy vỡ ra, chảy đầy máu và mủ. Thuốc men nào cũng không chữa được, Bụt nhận thầy về tu viện, nhưng thầy không về. Sau đó thầy mạng chung. Bụt rất xót thương. Người bảo: “Hận thù và ganh ghét là những chất độc làm ung thối tâm hồn, sau khi làm ung thối tâm hồn, những chất độc ấy còn phá hoại thân thể và gây thành những chứng bệnh rất kỳ lạ. Này các vị khất sĩ, các vị đừng để cho những chất độc ấy thấm vào thân tâm”.

Đại đức Ananda biết hết những tình tiết đó cho nên đã ngần ngại rất nhiều trước khi nhận trách nhiệm làm thị giả cho Bụt. Trong những điều kiện thầy đưa ra có điều kiện là nếu làm thị giả cho Bụt, thầy xin Bụt đừng bao giờ cho thầy áo, đừng cho thầy ngủ chung một phòng và đừng bao giờ chia cho thầy những thức ăn mà người ta cúng dường riêng cho Bụt. Thầy biết rất rõ là trong số những người đến với Bụt có nhiều người muốn được Bụt tiếp xử bằng một thái độ đặc biệt, và nếu không được tiếp xử như thế họ cảm thấy buồn tủi và từ sự buồn tủi đó họ có thể sinh ra hờn án và ghét bỏ luôn cả Bụt.

Đại đức Ananda nhớ rằng hồi Bụt an cư tại làng Kaimasadamya ở Kosambi, có một người đàn bà tên là Magandika đã vì không được Bụt đối xử một cách đặc biệt mà sinh lòng thù hận Bụt. Magandika là một phụ nữ xinh đẹp, con gái của một gia đình Bà la môn. Lần đầu thấy Bụt -hồi đó Bụt mới có bốn mươì bốn tuổi- cô đem lòng yêu mến người, rồi khi tình cảm đó lớn mạnh, cô đòi hỏi Bụt có một biệt nhãn đối với cô. Cô dã làm mọi cách để Bụt đối xử với cô như một người đặc biệt, nhưng cô không thành công. Rốt cuộc, tình cảm biến thành thù hận. Sau này trở nên thứ hậu của vua Udena xứ Vamsa, cô đã dùng quyền thế và phương tiện của cô để cho người đi nói xấu và nhục mạ Bụt, làm áp lực cho những chính quyền quận và ấp đừng cho Bụt và giáo đoàn tới thuyết pháp. Cô lại tìm cách trả thù và hành hạ vương phi Samavati, một người rất được vua Udayana ân sủng, chỉ vì người này là đệ tử rất thuần kính của Bụt. Thấy Bụt bị nhục mạ và làm khó dễ quá, đại đức Ananda đề nghị người nên đi hành đạo tại một xứ khác. Bụt hỏi:

- Nếu tới xứ khác mà cũng bị nhục mạ và làm khó dễ nữa, thì ta sẽ đi đâu?

Ananda nói:

- Thì ta nên tới một xứ khác nữa.

Bụt bảo: Nói như thế không được. Ananda ơi, gặp khó khăn, ta không nên nản lòng. Phải từ trong môi trường khó khăn ấy mà tìm ra giải pháp ổn thỏa. Ananda, nếu ta thực tập phép hành xã, ta sẽ không thấy khó chịu khi bị nhục mạ, và những lời nhục mạ ấy không động được đến ta. Những người chửi rủa ta sẽ không làm tổn thương được ta và chí hướng ta nếu ta thực tập được phép xả; còn họ, họ sẽ phải cịu dựng những kết quả của sự chửi rủa của họ. Khi một người nhổ nước bọt lên trời với ý định làm bẩn người, trời đã không bị bẩn mà nước bọt sẽ rơi xuống mặt người nhổ nước bọt.

Bụt đã thành công năm xưa ấy, Ananda thấy lòng bình thản và không lo ngại gì cho đại đức Sariputta tối nay. Đạo hạnh của Sariputta đã được số đông các huynh đệ công nhận, Nếu đứng vào địa vị của Bụt, chắc Ananda cũng phải làm như Bụt và cũng phải trọng dnụg đại đức Sariputta. Sư huynh Sariputta thật xứng đáng ở địa vị một huynh trưởng. Thông minh xuất chúng, kiến giải và đạo hạnh cao siêu, sư huynh đã từng thay thế Bụt nhiều lần trong việc lãnh đạo giáo đoàn. Sư huynh đã thuyết pháp nhiều lần và nhiều bài pháp thoại của sư huynh đã được Bụt khen ngợi và cũng đã được trùng tuyên thành kinh điển. Chính Kinh Dấu Chân Voi - Hatthipadopanna sutta - là do sư huynh nói. Trong kinh này sư huynh đã dạy về tứ diệu đế. Sư huynh không lặp lại những lời của Bụt, mà đã diễn giải tứ diệu đế một cách rất kỳ thú căn cứ vào sự tu chứng của bản thân sư huynh. Những lời sư huynh nói về bốn yếu tố đất, nước, lửa và không khí liên hệ tới năm uẩn thật là những giáo lý kỳ đặc và mới mẻ.

Khi Bụt bước vào giảng đường, tất cả các vị khất sĩ đều đứng dậy. Người đưa tay mời mọi người an tọa. Người cũng ngồi xuống pháp tọa để dành cho người và ra hiệu cho đại đức Sariputta tới ngồi trên một chiếc ghế thấp bên tay phải của người.

Đợi cho mọi người an tọa hết. Bụt mới xoay lại nói với đại đức Sariputta:

- Sariputta, có vị khất sĩ buộc tội thầy xô vị ấy ngã và bỏ đi mà không xin lỗi. Thầy có điều gì nói về việc này không?

Đại đức Sariputta đứng dậy chắp tay xá Bụt rồi chắp tay xá đại chúng. Thầy lên tiếng:

Thế Tôn, một ông thầy tu không tu, không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu của mình và bỏ đi mà không thèm xin lỗi.

Thế Tôn, con nhớ bài học mà ngày xưa Thế Tôn đã dạy cho khất sĩ Rahula, hồi ấy mới mười tám tuổi, cách đây đã trên mười bốn năm. Thế Tôn dạy Rahula học theo hạnh của đất, của nước, của lửa và của không khí, để nuôi dưỡng và phát triển bốn đức Từ, Bi, Hỷ và Xả. Hôm ấy con cũng có mặt. Thế Tôn dạy Rahula, nhưng con đã có duyên học và thực tập bài học ấy trong suốt mười bốn năm qua và con đã nhiều lần thầm biết ơn Thế Tôn về bài học ấy.

Thế Tôn, con đã tập hành sự như đất, và con đã thành công. Đất bao giờ cũng dày dặn, rộng lớn, bao la, có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Dù người ta đổ và rải lên những thứ tinh sạch như hoa, nước thơm, sữa thơm hoặc đổ và rải xuống đất những thứ dơ bẩn và hôi hám như phân, nước tiểu, máu, mủ, đàm, nhớt ... thì đất cũng tiếp nhận những thứ đó một cách thản nhiên, không tham đắm, không giận hờn, cũng không ghê tởm ...

Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như đất. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như vậy.

Thế Tôn, con đã tập hành sự như nước. Khi người ta giặt những thứ thơm tho hoặc dơ bẩn trong nước, nước cũng không vì thế mà cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn khổ và chán chường. Nước bao la, lưu chuyển, có năng lực hóa giải và gạn lọc. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như nước. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.

Thế Tôn, con đã tập hành sự như lửa. Lửa đốt cháy mọi thứ kể cả những cái đẹp đẽ hoặc hôi hám và dơ bẩn, nhưng lửa không vì vậy mà cảm thấy hoặc tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận và chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt, gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như lửa. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.

Thế Tôn, con đã tập hành sự như không khí. Không khí thổi đi những thứ mùi hoặc thơm hoặc thối, dù mùi đó là mùi máu mủ, phân và nước tiểu, mà không cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường. Không khí có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải. Lạy Bụt, con đã quán niệm để thân và tâm con được như không khí. Một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của thân thể, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.

Thế Tôn, như một em bé dòng dõi hạ tiện, áo quần rách rưới ôm bát vào làng xóm mà xin ăn; trong lòng không có một hào ly nào tự phụ, con cũng thế, trái tim con cũng như trái tim của một em bé dòng dõi hạ tiện, luôn luôn tràn đầy khiêm cung, đâu có dám lên mặt với ai. Lạy Bụt, một ông thầy tu không quán niệm thân thể nơi thân thể, không có ý thức về những động tác của tâm ý, một ông thầy tu như thế có thể xô ngã một người bạn tu và bỏ đi mà không thèm xin lỗi. Con không đến nỗi như thế.

Đại đứ Sariputta còn muốn nói nữa, nhưng vị khất sĩ buộc tội đại đức đã đứng dậy. Vị này vắt chéo áo sanghati lên vai, và lạy xuống trước Bụt, rồi quỳ xuống với hai bàn tay chắp lại, vị ấy nói:

- Bạch Thế Tôn, con đã phạm giới, con đã buộc tội sư huynh Sariputta một cách oan uổng, con xin sám hối trước Bụt và đại chúng để được thanh tịnh, và tự nguyện từ nay về sau sẽ không tái phạm.

Bụt nói:

- Thầy đã nhận là mình có tội trước đại chúng và sám hối. Điều này rất tốt, đại chúng đã chấp nhận sự sám hối của thầy.

Quay lại đại đức Sariputta, Bụt nói:

- Mong đại đức bỏ qua lỗi lầm của vị khất sĩ này.

- Con xin sẵn lòng bỏ qua nếu thầy ấy hối cải, và con cũng xin thầy ấy bỏ qua và tha thứ những lỗi lầm có thể có của con.

Vị khất sĩ đến trước Sariputta chắp tay lại làm lễ, Đại đức Sariputta đứng dậy đáp lễ. Hai vị cung kính lạy nhau. Đại chúng rất hoan hỷ. Không khí rất cởi mở và hòa dịu. đại đức Ananda đứng dậy nói:

- Sư huynh Sariputta, mời sư huynh ở lại chơi với các huynh đệ dăm ba hôm rồi sau đó hãy lên đường đi hành hóa. Anh em rất nhiều người muốn được gặp gỡ thân mật với sư huynh.

Đại đức Sariputta mỉm cười, im lặng chấp thuận.

Sau mùa an cư, Bụt đi du hành ở nhiều thị trấn trong xứ. Một hôm người đến Kesaputta, thị trấn của bộ tộc Kalama. Giới trẻ tìm gặp người rất đông, họ đã từng nghe tiếng sa môn Gotama nhưng chưa lần nào được gặp.

Một thanh niên chắp tay hỏi Bụt:

- Sa môn Gotama, lâu nay có rất nhiều vị đạo sĩ Bà la môn đến viếng xứ Kesaputta này, để giảng dạy đạo lý. Vị nào cũng nói chỉ có đạo lý của mình là hay và thường hay chê bai những đạo lý khác. Chúng con thật là bối rối, không biết đường nào mà đi, và rốt cuộc chúng con sinh ra nghi ngờ tất cả. Sa môn, chúng con nghe nói người là bậc giác ngộ liêm trực, xin người cho chúng con biết là nên tin theo ai và không nên tin theo ai? Ai là nói đúng và ai là người đang truyền bá tà thuyết?

Bụt nói:
- Trong trường hợp này, nếu các bạn có sinh tâm nghi ngờ, đó cũng là việc tự nhiên, dễ hiểu.

Này các bạn, các bạn đừng vội tin vào một điều gì dù diều đó là điều mà người ta thường nói đến luôn, dù điều đó có trong kinh điển, dù điều đó là do một bậc thầy mà thiên hạ tôn sùng nói ra. Các bạn chỉ nên chấp nhận và tin vào những điều mà các bạn thấy hợp với lý trí của các bạn, những điều được các hiền nhân đồng ý, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới những kết quả tốt đẹp cho đời sống, còn những điều không hợp với lý trí, những điều bị các hiền nhân chê trách, những điều mà nếu đem ra thực hành thì đưa tới khổ đau và đổ vỡ, những điều đó các bạn nên bác bỏ, đừng chấp nhận nữa.

Người thanh niên Kalama nói:

- Xin sa môn Gotama chỉ bày thêm cho chúng con.

Bụt hỏi:

- Này các bạn, ví dụ có một người để tham vọng, giận hờn và si mê chế ngự tâm mình, thì những tham dục giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho kia vui hay là khổ?

- Thưa sa môn, những tham vọng, giận hờn và si mê ấy sẽ làm cho người kia phạm vào tội ác và sẽ đem lại khổ đau lâu dài cho người ấy.

- Vậy thì sống theo tham vọng, giận hờn và si mê có phải là lối sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích không?

- Thưa không.

- Giả dụ có một người kia sống theo hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả, biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, biết làm giảm bớt nổi khổ của người đời, biết vui theo niềm vui của kẻ khác, biêt đối xử với kẻ khác một cách không kỳ thị, không oán trách, thì những hạnh Từ, Bi, Hỷ, và Xả ấy sẽ làm cho người ấy vui hay là khổ?

Những hạnh ấy không những sẽ làm cho người ấy có hạnh phúc mà còn làm cho mọi người sống chung quanh có hạnh phúc nữa.

- Vậy thì sống theo Từ, Bi, Hỷ, và Xả có phải là lối sống mà các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích không?

- Thưa sa môn, có.

- Hay lắm, các bạn. Các bạn hiện có đầy đủ tư cách để phán xét những gì nên tin và nên chấp nhận, và những gì không nên tin và không nên chấp nhận. Tôi xin nhắc lại: chỉ nên tin và chấp nhận những gì hợp với trí xét đoán của mình, những gì được các bậc hiền nhân chấp nhận và khuyến khích, những gì mà nếu đem ra thực hành sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mình và cho kẻ khác. Những gì trái chống lại thì nên từ chối, đừng chấp nhận.

Những người trẻ trong bộ tộc Klama rất lấy làm hoan hỷ sau khi nghe Bụt nói. Họ nhận thấy giáo lý của Bụt rất phù hợp với lý trí họ, không đòi hỏi một đức tin không điều kiện. Họ thấy nơi giáo lý ấy một niềm tôn trọng tự do tư tưởng rất lớn. Nhiều người xin được quy y làm học trò của Bụt.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 1290)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 5294)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2804)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 26076)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 13868)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 7449)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 9068)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 13854)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8203)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5856)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]